Search This Blog

Sunday, November 27, 2022

Học bá phần 2

*Phần 2 của Phần tiếp theo* #HọcBá học hành ra sao, họ có phương pháp hay là bí thuật nào để có thể học tập hiệu quả hơn người bình thường??

Abstract: không cần nghe giảng vẫn rank #1

*Warning: tiếp tục đắp Vạn Lý Trường Thành.. lần này nội dung lại còn được viết bởi một Học bá về Toán học :)))) ai muốn bỏ cuộc thì đọc đến đây là đủ rồi đó...


_______________



Dịch bởi: Tiên Chỉ Ngọc - anh thầy giáo - học tiếng Trung tử tế - ai bê bài nhớ nhớ nhớ inbox nhé nhé nhé. riêng bài này chắc không ai rảnh mà bê đâu =))

___________

[5573+ likes]Tôi luôn tự học và hiếm khi nghe giảng trên lớp. Từ đầu năm thứ nhất, tôi đã có ý tưởng về cách cải thiện phương pháp học tập, viết ra ý tưởng của mình, thường xuyên sắp xếp chúng lại và in ra giấy. Và hầu như tất cả thời gian, kể cả cuối tuần, tôi đều dành cho việc học. Kỳ nghỉ hè năm thứ hai cũng chủ yếu ở trường để học các môn học của học kỳ tiếp theo.

Mãi đến năm học thứ ba mới thấy có sự tiến bộ rõ rệt. Năm thứ ba tôi đã giành được rank #1 vào cuối học kỳ. Sau đó, điểm số năm 3 và năm 4 đều là rank #1. (Kết quả của năm nhất và năm hai là rank #15 và #14 trong số 29 sinh viên chuyên ngành.)

1. Kinh nghiệm tư học

Từ năm nhất Đại học, tôi đã chọn phương pháp tự học. Khi lên lớp tôi hầu như không nghe giảng, tôi thường ngồi ở hàng cuối cùng để dành thời gian đọc giáo trình. Không ai trong số những học sinh có điểm số tốt trong lớp làm giống tôi, bọn họ đều nghe giảng rất chăm chỉ.

Lý do tôi chọn một phương pháp khác có lẽ là vì tôi thích tự học từ hồi còn học cấp 3. Những cuốn sách thuộc bậc Đại học mà tôi từng đọc khi còn học cấp 3 bao gồm "Lý thuyết Số học Cơ bản" của Phan Thừa Động, "Dẫn luận về Số học Nâng Cao" Tập 1 của Hoa La Canh, "Bài giảng Feynman về Vật Lý" của Feynman, và khó nhất Đó là "Lý thuyết Galois" do Tôn Bản Vượng biên soạn. Lúc đó, tôi bắt đầu tự học mà không có ai hướng dẫn, tôi phải tự mình tích lũy kinh nghiệm. Chương trình học ở bậc trung học không hề khó chút nào, tôi nghĩ không cần bất kỳ phương pháp đặc biệt nào để có thể đọc hiểu được mớ sách vở ấy (Dịch giả cũng thấy đúng, vì hồi cấp 3 mình học chuyên tiếng Trung thì thấy tiếng Trung cũng không có gì là khó, mặc dù mình học trường Năng khiếu, thi Học sinh Giỏi tiếng Trung cấp Thành phố cũng không cần nỗ lực gì nhiều để đạt Giải Nhất, nhưng khi lên Đại học đập vào mặt là giáo trình 桥梁 - Nhịp Cầu – giáo trình của lớp Cử nhân Chất lượng cao thì nó lại hoàn toàn khác nha, từ mới và ngữ pháp như ở một vũ trụ khác vậy..) Nhưng Toán và Vật lý ở bậc Đại học thì khó hơn. Do đó, các yêu cầu cho phương pháp học tập cao hơn nhiều. Lúc đầu, tôi thực sự không hề có bất kỳ phương pháp học tập nào trong tay. Trong khi đọc giáo trình, cần đánh dấu trên sách, chẳng hạn như đánh dấu hỏi và gạch chân phần trọng điểm, mấy quy tắc đơn giản như vậy mà tôi không hề biết mặc dù từng đọc xong cuốn "Lý thuyết Số học Cơ bản". Sau này tôi đọc được ở một cuốn sách có nói rằng phương pháp này hữu ích trong việc đọc hiểu và ghi nhớ, từ đó mới bắt đầu thực hành theo. Vì sự lạc hậu của tôi mà những cuốn sách kể trên tôi đã phải rất tốn công để đọc và chưa đọc hiểu được hoàn toàn. Nhưng mà cũng từ đó mà nó đã thành nền tảng cho việc tự học của tôi.



Những lợi thế của việc tự học có lẽ tôi không cần phải nói nhiều nữa, điều này là vô cùng rõ ràng. Đặc biệt là càng về sau, tốc độ học càng nhanh thì lợi ích đem lại càng lớn. Trong môn Đại số Trừu tượng, giáo viên cần mất bốn tháng để giảng xong nội dung của giáo trình. Riêng tôi đã tự đọc hết sách chỉ trong hai tuần đầu tiên khi bắt đầu học kỳ. Khi đến giữa kỳ, tôi đã đọc nó được ba hoặc bốn lần. (Tôi làm được điều này trong khi còn phải học tới 4 môn chuyên ngành nữa.) Phương pháp của tôi chưa được hoàn thiện khi còn là sinh viên năm nhất và năm hai, do đó chưa có được kết quả tốt. Nhưng vào năm ba thì thực sự là đã có những hiệu quả mang tính đột phá. Thành tích học tập rank #14 đã một bước vọt lên rank #1.

Không nói dông dài nữa, giờ là vào thẳng kinh nghiệm về vấn đề tự học.

1.1 Đọc giáo trình

Lấy cuốn "Đại số Trừu tượng" làm ví dụ. Khi đọc giáo trình, tôi phân ra làm nhiều lần đọc, mỗi lần đọc sẽ có một mục đích khác nhau.

a1. Bước thứ nhất, đọc giáo trình lần 1

b1. Cách làm cụ thể: yêu cầu vô cùng thấp, việc cần làm rất đơn giản, những thứ khó nhằn như là chứng minh định lý, đề mẫu đều không cần đọc, chỉ đọc định nghĩa, khái niệm, giải thích từ ngữ. Cùng với việc đọc, cần phải thực hiện việc ghi chú đánh dấu, ví dụ như gạch chân những nội dung trọng điểm; nội dung nào không hiểu thì đánh dấu hỏi chấm; hoặc sử dụng ghi chú theo số thứ tự để đánh dấu lại các kết luận quan trọng. Không cần thiết phải đọc hiểu, đọc không hiểu gì cũng ok. Chỉ cần đọc qua giáo trình một lượt như vậy là đã hoàn thành nhiệm vụ rồi.

b2. Nguyên lý: có quá nhiều chỗ không hiểu, đọc sách mà như ăn táo cả hột như vậy có ổn không? Câu trả lời là Có. Điều này giúp não bộ có được ấn tượng nhất định về giáo trình. Tuy là còn chưa hiểu gì, nhưng não bộ đã bước đầu ghi nhận là đã có những nội dung này, đã ghi lại những thứ đó, và sẽ ngày một quen dần với nó. Cách này giúp đọc cả cuốn giáo trình một cách nhanh chóng, chỉ tốn 2-3 ngày là có thể hoàn thành bước này.

a2. Bước 2, đây là bước vô cùng quan trọng, đem lại hiệu quả cao: thu thập, ghi chép lại toàn bộ các định nghĩa, kiến thức quan trọng nằm trong giáo trình.

b1. Cách làm cụ thể: Đối với môn Đại số Trừu tượng, Kiến thức quan trọng đều nằm ở các Định lý trong giáo trình. (Sách Vật lý thì sẽ có thêm các Công thức). Về cách thu thập ghi chép, có thể không cần chép tay, làm như vậy sẽ rất mệt, lại tốn thời gian. Tôi thì tìm bản PDF của giáo trình, sau đó dùng máy tính capture màn hình lại, ghi lại toàn bộ các Định nghĩa từng cái một, lần lượt paste vào Word. Sau đó lại làm tương tự với các Định lý, paste vào một file Word khác. Sắp xếp xong sẽ đem in ra. Sau này khi muốn xem lại sẽ vô cùng thuận tiện.

b2. Nguyên lý: Tại sao lại nhấn mạnh đây là bước vô cùng quan trọng?

Bởi vì, bước này sẽ khiến toàn bộ việc học sau này trở nên vô cùng dễ dàng, từ đó đạt được hiệu suất học tập vô cùng to lớn. Học tập chủ yếu phân ra thành 2 phần, Hiểu và Ghi nhớ. Các cách giải đề trong giáo trình như là dẫn chứng, chứng minh, giải thích, đề mục.. đều phải hiểu hết. Còn các thứ khác như là khái niệm, kết luận, công thức thì cần phải thuộc nằm lòng.

b3. Tại sao tôi nghĩ đến vấn đề này?

Có một lần, tôi đột nhiên ngộ ra điểm quan trọng này, giáo trình của Đại học khó đọc hơn sách giáo khoa cấp 3 rất nhiều, đó là bởi vì có qúa nhiều thứ phức tạp cần phải ghi nhớ. Sách cấp 3 không có nhiều định nghĩa hay là các định lý mang tính trừu tượng như giáo trình Đại học, công thức cũng vô cùng đơn giản.

Tôi nói việc khó khăn ở đây chủ yếu là do phải nhớ nhiều thứ phức tạp, chứ không phải khó ở việc lý giải các định nghĩa, vì sao? Bởi vì các điểm thật sự khó hiểu của giáo trình chủ yếu là do phần sau của giáo trình sử dụng quá nhiều kết luận hoặc định nghĩa của phần trước. Giả dụ, nếu bạn không nhớ những kết luận, định nghĩa ở phần trước, thì sẽ không thể hiểu được phần dẫn chứng, chứng minh ở phần sau đang nói về cái gì. Ngược lại, nếu toàn bộ các định nghĩa, định lý được dùng trong phần chứng minh mà ta đều đã nắm được, thì phần chứng minh đó không có gì là khó hiểu cả.



Nói như vậy tức là phải ghi nhớ, hiểu rõ toàn bộ phần phía trước rồi thì mới có thể đọc phần sau của giáo trình sao?

Không hề, nếu làm vậy thì mỗi khi đọc đến 1 phần nhỏ sẽ phải ngừng lại một lúc lâu, hiệu quả làm việc không cao. Do đó cần phải dùng phương pháp khác. Chỉ cần liệt kê hết các kiến thức, kết luận quan trọng ra, gặp cái nào không biết thì tra luôn, điều này mang lại hiệu quả giống như việc bản thân đã ghi nhớ từ trước rồi vậy. (cho dù là chưa nhớ được kỹ đống này, nhưng mà tra đi tra lại vài lần, rồi dùng nhiều thì tự khắc sẽ quen, sau này có muốn ghi nhớ cũng rất dễ)



Lợi ích thứ 1 từ việc thu thập các kiến thức, kết luận quan trọng: sẽ tiện lợi rất nhiều trong việc đọc giáo trình hoặc đề mẫu sau này. Không hiểu thì tra, dần dần sẽ tăng hiệu suất đọc hiểu, ít bị vướng mắc (vì những kiến thức mà trước đây chưa hiểu). Ngoài ra còn có một lợi ích quan trọng khác: giúp tăng cường khả năng ghi nhớ. Có nhiều người không có thói quen liệt kê thu thập các kiến thức, kết luận quan trọng (trong giáo trình) nên những thứ cần ghi nhớ như vậy cứ mãi chơi trốn tìm trong sách giáo trình, không những dễ bị bỏ sót, mà hay bị lẫn lộn giữa cái này với cái kia, gây khó khăn trong việc học thuộc lòng. (bình thường tất cả mọi người đều để đến kỳ ôn tập mới bắt đầu liệt kê chọn lọc toàn bộ kiến thức. Tôi thì cho rằng, việc này nên làm ngay từ đầu mỗi khi hoàn thành một bài học thì sẽ hiệu quả hơn)

a3. Bước thứ ba, đọc giáo trình lần thứ 2

b1. Cách làm cụ thể: Lúc này cần tập trung vào việc đọc các phép chứng minh, đề mẫu có thể chưa cần đọc. Việc cần làm lúc này là tập trung toàn bộ tinh thần vào việc đọc các phép chứng minh, khái niệm hay là giải thích từ ngữ đều bỏ qua hết. Khi đó sẽ phát hiện ra, việc đọc qua một lượt và sau khi đã ghi chép lại toàn bộ các định nghĩa, kết luận thì việc đọc phương pháp chứng minh sẽ vô cùng dễ hiểu. Thường là sẽ đọc hiểu được toàn bộ nội dung.

Nếu như vẫn còn chỗ chưa hiểu thì phải làm thế nào? Đánh dấu hỏi vào chỗ đó, không được dừng lại, không được tốn thời gian vào những chỗ như vậy. Bởi vì có nhiều thứ khi mới bắt đầu đọc thì có vẻ khó hiểu, đó là do chưa có được hình dung đầy đủ. Sau khi đã đọc tới phần sau, có được sự hình dung nhất định rồi quay lại đọc phần trước trước, tự nhiên sẽ vỡ ra nhiều điều. Với kinh nghiệm của bản thân, cứ theo cách này việc đọc phương pháp chứng minh một ngày có thể đọc được mấy chục trang. Vì thế chỉ cần mất 3-4 ngày là có thể hoàn thành bước này.

Sử dụng phương pháp trên để đọc giáo trình, cảm giác giống như đang áp dụng kỹ thuật Pipeline (Pipeline là một thuật ngữ trong lập trình máy tính, trong đó các lệnh được thực thi theo kiểu chồng lắp lên nhau.), các bước khác nhau đều được phân tách ra. Trước đó, chúng ta thường quen với việc làm theo từng bước, từ đầu đến cuối, đọc từ khái niệm, định nghĩa, đề mẫu, chứng minh, dẫn chứng đều đọc hết 1 lần, sách viết gì là đọc cái đó. Riêng tôi thì cho rằng việc bóc tách từng phần ra để đọc sẽ hiệu quả hơn rất nhiều. Quy tắc ở đây là bắt tay vào làm từ dễ đến khó. Làm hết các việc dễ trước, làm tốt những thứ cơ bản, sau đó bắt tay vào làm các việc khó nhằn, như vậy cảm giác sẽ dễ thở hơn. Bằng không sẽ thường xuyên bị kẹt lại ở những việc khó khăn, mà đã bị kẹt là sẽ tốn rất nhiều thời gian.

1.2 Giải đề

Sau khi đã hoàn thành các bước trên, giáo trình đã đọc xong 2 lần, tất cả đều đã hiểu rõ. Tiếp theo là đi vào giải đề thôi.

a. Bước thứ nhất, hãy đọc nhiều đề

Giả dụ có 5 chương, tôi sẽ đọc liền một lúc đề trong 3 chương đầu, sau đó làm đề của chương thứ 1. Lợi ích của việc này là khi chúng ta đã xem đến nội dung phía sau thì lúc quay lại đọc nội dung phía trước sẽ cảm thấy rất đơn giản. (Nguyên nhân: các phần sau thường dùng kiến thức có liên quan đến phần trước, cho nên sẽ khiến người đọc cảm thấy quen thuộc khi quay lại đọc những nội dung của phần trước)



b. Bước thứ hai, tự giải đề

Khi đã có phương pháp đúng để đọc giáo trình thì lúc thầy giảng tới 1/3 (giáo trình) mình đã đọc xong giáo trình được 2 lần. Bởi vậy, toàn bộ thời gian còn lại có thể dành ra để đọc đề, giải đề. Đề thi cuối kỳ thường là những kiến thức rất cơ bản, vì thế chỉ cần chăm chỉ đọc đề, làm đề, có nền tảng kiến thức vững rồi thì đến lúc thi cuối kỳ, những Đề người khác giải được bạn cũng sẽ giải được, những Đề người khác không giải được thì có khi bạn lại giải được. Được như vậy là đã đặt chân vào thánh địa của sự Bất bại.

Vào Đại học năm ba sẽ phải học rất nhiều môn, ngoài 5 môn chuyên ngành còn phải học thêm 5 môn tự chọn, ngoài ra còn học Kỹ thuật truyền thông và Ứng dụng. Muôn hình muôn vẻ các thể loại thi cử kiểm tra cứ dồn dập đổ lên đầu, khiến cho ai cũng cảm thấy muốn gục ngã. Thực tế là vậy cho nên tôi cũng không giải được nhiều Đề. Kỳ 1 năm Ba thì bài vở ít hơn, có được thời gian rảnh, cho nên tôi đầu tư thời gian để học về Cơ học Lượng tử. Kết quả là giành được điểm số cao hiếm có trong Khoa, 99 điểm. Kỳ 2 của năm Ba, thời gian để đọc giáo trình phần nhiều dành cho môn "Đại số Trừu tượng", kết quả là thi cuối kỳ được 94 điểm. Môn này thấy bảo trong lớp có nhiều Học-Bá thi cuối kỳ chỉ được có 6-70 điểm, vậy tôi đạt 94 điểm là cũng coi được chớ hả. (quá được thưa bạn..)

2. Kinh nghiệm để nâng cao hiệu suất học tập

Khi làm một việc gì, điều đầu tiên là phải nghĩ cách làm sao để làm công việc đó một cách tốt hơn mình có thể. Ví như việc học chẳng hạn, hiện tại tôi đã có những ý tưởng khá ổn, bây giờ việc tiếp theo là phải biến nó thành cách hành động cụ thể.



a. Đầu tiên là phải ý thức được một chuyện quan trọng: khi làm một công việc lớn thì sẽ mất nhiều thời gian để hoàn thành công việc đó. Nếu mà không có bất kỳ sự sắp xếp nào, cứ thế cắm đầu vào làm, thì mỗi lần bắt đầu làm đều cảm thấy mình sẽ còn lâu mới có thể hoàn thành được công việc này.

Lấy 1 ví dụ: bây giờ hiện có 1 nhiệm vụ ở đây. Tình huống thứ 1, trong 1 giờ đồng hồ có thể hoàn thành nhiệm vụ này. Tình huống thứ 2, phải mất tới 5 giờ đồng hồ mới có thể hoàn thành nhiệm vụ. Đương nhiên khi rơi vào tình huống 1, tôi sẽ dốc toàn tâm toàn lực, dùng mọi năng lượng tích cực mà mình có để mà hoàn thành nó nhanh nhất có thể. Do vậy, tôi cảm thấy việc này không hề khó, không cần phải bỏ quá nhiều công sức để hoàn thành nó, có thể nhìn thấy rõ khả năng hoàn thành nhiệm vụ ngay trước mắt. Nếu mà rơi vào tình huống thứ 2 (mỗi khi bắt đầu phải làm bài tập của môn chuyên ngành là đều rơi vào trạng thái này), tôi đều cảm thấy bị nhụt chí, tìm mọi cách để trì hoãn, hoặc có làm thì cứ làm từ từ chậm rãi chứ không có quyết tâm. Bởi vì sao, tôi ý thức được rằng tôi không thể nhanh chóng hoàn thành công việc này, tôi hiểu rõ khi bắt tay vào làm việc này là ôi thôi, thoang thoảng đâu đây mùi cháo hành nức mũi, cảm thấy như đeo gông vào cổ, không những phải vùi đầu vào nó trong thời gian dài, mà có khi còn bị nó xoay cho chóng cả mặt. Vừa nghĩ như vậy là mọi năng lượng tích cực của tôi đều tiêu tan. Khi mà không còn năng lực tích cực nữa thì hiệu suất làm việc sẽ vô cùng thấp, càng làm càng cảm thấy công việc này thực sự vô vị, chán ngắt.



b. Do đó, nếu bản thân chỉ luôn gặp tình huống số 1, thì mọi chuyện dễ dàng quá rồi, cuộc đời chỉ toàn là hoa thơm trái ngọt, cảm giác thỏa mãn dâng trào, càng làm càng hăng, năng lượng tích cực tràn trề. Bởi vì từng nhiệm vụ đều có thể hoàn thành trong thời gian ngắn, bản thân lại càng hăng hái, gấp rút hoàn thành công việc. Ngược lại, khi rơi vào tình huống thứ 2, hiệu suất làm việc thấp, tinh thần làm việc cũng chẳng vui vẻ gì. Càng gần deadline (ví dụ là thời gian còn nửa tiếng) thì lại sinh ra suy nghĩ : đằng nào còn nửa tiếng cũng chẳng thể làm xong được, thôi thì cứ tạm dừng nghỉ ngơi cái đã, bởi vậy nên càng bỏ lỡ nhiều thời gian. Rõ ràng là tình huống số 1 dễ xơi hơn tình huống số 2 rất rất nhiều. Nhưng mà việc học hành thì hầu như đều rơi vào tình huống số 2, phải đọc giáo trình, phải giải nhiều Đề, khi làm thì đều tốn rất nhiều thời gian và sức lực. Do đó, phương pháp để cải thiện tình trạng này chính là nghĩ ra cách để chuyển hóa, biến một việc lớn thành nhiều việc nhỏ.



c. Những điều nói trên chắc ai cũng đã biết, thứ tôi muốn nói tới ở đây chính là cách làm cụ thể, làm thế nào để chuyển hóa việc lớn thành việc nhỏ một cách hiệu quả.

Tổng kết lại thì công việc cần làm có 5 thứ như sau: Đọc giáo trình lần thứ nhất (chủ yếu là đọc khái niệm), Đọc giáo trình lần thứ hai (tập trung vào đọc dẫn chứng số học), đọc bộ Đề, tổng kết các Đề đã đọc, lựa chọn một số Đề để giải. Nhiệm vụ chính của tôi là học kỹ chương 4 và chương 5. Sau đó thì tôi sẽ phân ra các nhiệm vụ, mỗi nhiệm vụ sẽ được giải quyết trong vòng 1 tiếng rưỡi. Ví như việc đọc giáo trình lần thứ nhất, tôi nhẩm tính sẽ phải phân ra làm 4 nhiệm vụ nhỏ (mỗi nhiệm vụ nhỏ cần tốn 1 tiếng rưỡi để hoàn thành), mỗi nhiệm vụ nhỏ cần ghi rõ ra là từ phần mấy tới phần mấy (của mỗi chương). Làm Đề thì cần phải phân ra khoảng 10 nhiệm vụ nhỏ, mỗi nhiệm vụ nhỏ là 2 câu, v.v.. Sau khi phân tách nhiệm vụ, dùng máy tính để liệt kê lại tất cả, sau đó đem in ra rồi mới bắt tay vào làm. Như vậy, từ cái nhiệm vụ to vật vã là phải hoàn thành chương 4 và chương 5, sau khi phân tách xong, thì tôi chỉ phải đối mặt với các nhiệm vụ nhỏ nhỏ xinh xinh, chỉ cần 1 tiếng rưỡi đồng hồ là có thể hoàn thành. Bây giờ thì chỉ cần toàn tâm toàn ý mà làm một lèo là có thể xong từng việc, mỗi lần làm xong một việc là có thể tận hưởng cảm giác được thỏa mãn khi hoàn thành công việc. Từ đó sẽ không bị cảm giác mệt mỏi bủa vây, có thể lên tinh thần để bắt đầu làm các nhiệm vụ tiếp theo. Cả một nhiệm vụ lớn (nếu phân tách ra) có thể được hoàn thành một cách hiệu quả sau mỗi lần tập trung trí lực cho từng nhiệm vụ nhỏ.

(còn một số nội dung về Q&A-hỏi đáp nhưng nó quá thiên về toán học nên thôi, mình không dịch nữa)

To be continued.. Phần sau là về kinh nghiệm học ngoại ngữ nhaaaa!

___________

Monday, November 14, 2022

Pháp trị, quan điểm về tính ác của con người và cơ sở khoa học về tâm lý thông qua hiệu ứng Lucifer

Pháp trị, quan điểm về tính ác của con người và cơ sở khoa học về tâm lý thông qua hiệu ứng Lucifer
Tháng Mười Một 4, 2022 Hung Cuong Nguyễn Chuyện 3L - Lương, Lậu, Luật No comments
Link tài trợ: Seri sách Blog Nhân sự; Đĩa CD tài liệu Nhân sự;
11 năm về trước (năm 2011), tôi đã có một bài viết với chủ đề "Thuyết pháp trị trong tạo động lực (motivation) và các công việc của nhân sự". Trong đấy tôi chia sẻ về việc ứng dụng thuyết pháp trị vào Quản trị nhân sự. Tóm tắt như sau: "Cái nền tảng của tư tưởng pháp trị là : "lợi" & "hại", "bản tính con người là tham lam độc ác". Như vậy pháp trị không chỉ là pháp luật mà là tất cả những hành động áp dụng nền tảng đó thì được gọi là pháp trị. Các hành động đó có thể là: nội quy (pháp luật), là chính sách khen thưởng, là sự công khai minh bạch, là thẳng thắn trao đổi ...."

Tôi bắt đầu đi tư vấn xây dựng hệ thống Quản trị Nhân sự từ năm 2014. Đến năm 2016, tôi học thạc sỹ Quản trị Nhân lực. Năm 2017 thì tự tổng hợp và xuất bản sách với tên "CEO và Hệ thống Quản trị Nhân sự". Trong quãng thời gian đó, tôi luôn mang quan điểm về pháp trị để tư vấn cho các đối tác. Liệu ứng dụng quan điểm này vào xây hệ thống có đúng đắn? Khi đi sâu tìm hiểu Pháp trị và cơ sở khoa học đã được nghiên cứu chứng minh về tính đúng của quan điểm, chúng ta sẽ gặp rất nhiều các thuyết và hiệu ứng tâm lý. Một trong những hiệu ứng là hiệu Ứng Lucifer. Hiệu ứng này giải thích: Vì Sao Một Người Tốt Có Thể Trở Thành Kẻ Xấu?

Xin mời cả nhà cùng đọc bài dưới đây để thấy rõ hơn.



Hiệu Ứng Lucifer, Vì Sao Một Người Tốt Có Thể Trở Thành Kẻ Xấu?

Đã bao giờ bạn chứng kiến một người từng là người rất tốt trong quá khứ nhưng rồi lại trở thành một kẻ vô cùng xấu xa, thậm chí là độc ác?

Nếu như câu trả lời là có cho tất cả các câu hỏi trên và bạn mong muốn tìm ra lời giải đáp cho những hiện tượng này thì hiệu ứng Lucifer có thể là một góc nhìn tâm lý cực kỳ hữu ích giúp bạn. Hiệu ứng Lucifer không chỉ giúp bạn lý giải nguyên nhân vì sao một người rất tốt trong quá khứ có thể trở thành một kẻ độc ác trong tương lai, ngược lại nó còn giúp bạn có thêm góc nhìn tâm lý sâu xa về lời khẳng định rằng bất kỳ ai cũng có thể là một kẻ độc ác. Và cuối cùng, đó là những giải pháp cho vấn đề trên để mỗi người có thể trở thành "người hùng" thay vì "ác quỷ".

HIỆU ỨNG LUCIFER

Theo truyền thuyết kể lại trong Kinh Thánh, Lucifer vốn là thiên thần mà Chúa hết mực yêu quý. Lucifer có nghĩa là ánh sáng (light-bringing), hay còn gọi là sao mai trong buổi sớm (the morning star). Lucifer là một người có quyền năng tối thượng. Tuy nhiên sau đó Lucifer đã phản bội lại đức tin của mình vì cho rằng mình mới là kẻ mà loài người phải phục tùng và sùng bái. Sau đó Lucifer đã triệu tập những thiên thần nổi loạn và khơi mào cho cuộc chiến tranh trên Thiên đàng. Kết quả là Lucifer cùng các thiên thần nổi loạn đã bị đánh bại, sau đó đã bị trục xuất khỏi thiên đàng, đẩy xuống địa ngục và trở thành quỷ dữ Satan. Hình ảnh Lucifer được nhắc đến như một sự chuyển đổi từ một thiên thần trở thành quỷ dữ, là hình ảnh biểu tượng cho việc một người biến đổi từ chỗ lương thiện trở thành kẻ ác.

Hiệu ứng Lucifer nói lên những mặt tiêu cực, những phần xấu mà con người có thể trở thành. Cuốn sách The Lucifer Effect được viết bởi Philip Zimbardo – cựu chủ tịch hiệp hội tâm lý Mỹ (American Psychological Association) và là giáo sư đại học Stanford. Dựa trên nghiên cứu về những hành động trái đạo đức và chủ nghĩa anh hùng, những biến đổi tâm lý thông qua quá trình nghiên cứu hơn 30 năm, Zimbardo đã lý giải các yếu tố để biến một người bình thường hoặc người tốt trở thành kẻ độc ác (Understanding How Good People Turn Evil) với tên gọi: hiệu ứng Lucifer.

BẤT KỲ AI CŨNG CÓ THỂ LÀM VIỆC XẤU

Đã bao giờ bạn nghe một câu chuyện kể về một người nhìn thấy một món đồ rất giá trị trong hoàn cảnh mà chỉ có anh ta/ cô ta ở đó? Ở trong hoàn cảnh không có ai nhìn thấy ngoại trừ chính anh ta/ cô ta, lòng tham của người đó nổi lên và anh ta/ cô ta thực hiện hành vi "ăn cắp vặt", một điều mà người này vốn dĩ không bao giờ làm trong quá khứ. Đây có thể là một ví dụ hết sức quen thuộc với bạn và với rất nhiều người. Ví dụ này giúp chúng ta đưa ra một kết luận không được hay cho lắm rằng bất kỳ ai cũng có thể làm việc xấu. Kết luận này nghe có vẻ cực đoan bởi vì nhiều người có thể nói rằng họ sinh ra vốn dĩ đã là người tốt hoặc họ có thể là một người rất chính trực, chắc chắn họ sẽ không bao giờ làm việc xấu. Nhưng sự thật thì không phải như vậy. Với nhiều người, việc họ không làm một việc xấu là bởi vì họ không ở trong hoàn cảnh cho phép người đó làm việc xấu. Và họ sẽ làm việc xấu nếu như họ ở trong hoàn cảnh cho phép họ có thể làm việc xấu.

Điều thú vị hơn mà hiệu ứng Lucifer lý giải về những người làm việc xấu. Một người thực hiện hành vi xấu có thể là một người rất bình thường về mặt thể trạng tâm lý và tinh thần. Nguyên nhân khiến một người có thể thực hiện hành vi xấu là do hoàn cảnh người đó được đặt vào khiến người đó có thể thực hiện hành vi xấu. Khi một người được đặt vào một hoàn cảnh khác thì tâm lý họ có thể thay đổi, thậm chí biến đổi hoàn toàn. Điều này có thể được mô tả qua câu nói:

"If you want to change a person, you have got to change the situation. If you want to change the situation, you have got to know where the power is, in the system".

Nghĩa là nếu bạn muốn thay đổi một người, bạn phải đặt một người vào một hoàn cảnh thuộc một hệ thống khi mà người này được trao quyền để có thể thực hiện một hành vi.

THÍ NGHIỆM NHÀ TÙ STANFORD

Một thí nghiệm nổi tiếng minh chứng cho kết luận trên là thí nghiệm nhà tù Stanford được thực hiện vào tháng 8 năm 1971. Tác giả đã tiến hành một thí nghiệm mà ở đó ông đưa những nam sinh viên trẻ vào một nhà tù giả tại Stanford, đồng thời ngẫu nhiên phân số sinh viên này thành hai nhóm người: cai ngục và tù nhân. Để mọi thứ giống thật nhất có thể, 28 sinh viên được chọn là những người da trắng, thuộc tầng lớp trung lưu, có tâm lý và sức khỏe bình thường, không hề có tiền án phạm tội trong quá khứ. Có thể khẳng định rằng nhóm sinh viên này là những người không hề có tiền sử bất ổn về mặt hành vi. Không những thế, thí nghiệm cũng yêu cầu các nam sinh viên này thực hiện hàng loạt bài kiểm tra tính cách để đảm bảo rằng họ không có sự lệch lạc đáng kể nào về đặc điểm tính cách.

Sau khi nhóm sinh viên này được phân loại thành hai nhóm người, nhóm "cai ngục" (những người đóng vai cai ngục) được trang bị dùi cui bằng gỗ, đồng phục và kính râm phản quang. Khi đến nhà tù, các "tù nhân" (những người đóng vai tù nhân) bị cảnh sát thật bắt. Họ bị lột trần truồng, diệt chấy rận và gán cho các con số thay cho tên thật. Mỗi tù nhân ở trong một phòng nhỏ của riêng họ. Không lâu sau, thí nghiệm này đã vượt ngoài tầm kiểm soát khi các "cai ngục" có những hành vi trừng phạt "tù nhân". Một số "tù nhân" từ chối làm theo hướng dẫn của "cai ngục", "cai ngục" đã trả đũa bằng cách dùng bình chữa cháy tấn công họ, buộc họ phải tiểu tiện và đại tiện vào một cái thùng đặt trong phòng giam và sau đó không cho đổ đi. "Cai ngục" lột sạch quần áo và lấy đi nệm của "tù nhân", buộc họ phải ngủ trên sàn lạnh. Một "tù nhân" tuyệt thực bị giam cầm trong phòng nhỏ tăm tối và thường xuyên bị la mắng.

Thời gian trôi qua, những "cai ngục" đã trở nên bạo lực và độc ác hơn dự kiến. Chỉ sau 6 ngày, tác giả nghiên cứu đã phải hủy bỏ thí nghiệm. Những sinh viên trong vai "tù nhân" bị hoảng loạn tinh thần và trong những tình huống bình thường, không một ai tin rằng những sinh viên trong vai "cai ngục" lại có thể trở thành những kẻ tàn bạo và lạm quyền.

Ở đây, những "cai ngục" đã được đưa vào một hoàn cảnh (situation) và được trao một thứ quyền lực (power) để dám thực hiện những hành vi như trừng phạt tù nhân trong hệ thống (system) là nhà tù. Hiển nhiên là trong một hoàn cảnh bình thường, một sinh viên bình thường như nhóm sinh viên này chắc chắn không dám thực hiện những hành động bạo lực như thế. Tuy nhiên, trong một hoàn cảnh đặc biệt, với quyền lực trong tay, ở trong một hệ thống cho phép thực hiện những hành vi đó, thì nhóm sinh viên này đã dám làm.

KHI NGƯỜI TỐT DÁM LÀM VIỆC XẤU

Bây giờ thì bạn đã hiểu vì sao một người bình thường rất tốt lại có thể dám làm những việc rất xấu mà bình thường người đó không dám làm. Để tổng quát hóa, bạn có thể tóm tắt lại như sau: (Dĩ nhiên, đây chỉ là công thức tóm lại từ khóa cho bạn dễ nhớ, chứ không có công thức nào là công thức như vậy cả).

Hiệu ứng Lucifer = Hoàn cảnh (Situation) + Quyền lực (Power) + Hệ thống (System)

Chúng ta hãy cùng điểm qua ví dụ:

Một người bình thường có thể rất tuân thủ luật khi tham gia giao thông, chẳng hạn luôn luôn dừng xe trước vạch khi có đèn đỏ và chỉ lái xe khi tín hiệu đèn xanh xuất hiện. Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra nếu như trong một hoàn cảnh chẳng hạn vào đêm khuya, người đó lái xe trên một ngã tư chỉ có một mình họ, và xung quanh không có công an giao thông. Khi đó họ có thể tự cho mình một quyền lực đó là thoải mái vượt đèn đỏ mà không hề cảm thấy bản thân mình có lỗi. Cũng vẫn là ví dụ đó, trong trường hợp người lái xe này vượt đèn đỏ và vô tình bị một cảnh sát giao thông thổi phạt. Một cảnh sát giao thông có thể "xử lý nhanh, không cần lập biên bản" khi mà ở đó không có sự giám sát và người này được thực hiện quyền đó. Ngược lại, chuyện này sẽ không xảy ra nếu như hệ thống giao thông đó được lắp đặt camera ở các ngã tư giao thông trên đường và thi hành chính sách "phạt nguội". Điều đó có nghĩa là khi một người vượt đèn đỏ, camera giao thông sẽ phát ra tín hiệu, đồng thời người này sẽ tự động bị xử phạt. Trong một thời hạn nhất định, người này sẽ phải nộp phạt nếu không muốn bị tước đi giấy phép lái xe.

Đây là cách mà rất nhiều nước phát triển áp dụng. Chẳng hạn tài xế ở Singapore, khi lái xe qua trạm thu phí, chỉ cần bánh xe lăn qua vạch vào vùng đường mới, tài khoản ngân hàng của tài xế sẽ được hệ thống tự động trừ tiền thay vì phải dừng lại đóng tiền mặt. Cảnh sát giao thông cũng rất ít khi xuất hiện trên đường là bởi vì họ chỉ xuất hiện khi có vụ việc nghiêm trọng xảy ra, còn đâu rất nhiều lỗi của tài xế sẽ bị xử phạt tự động. Như vậy chính phủ Singapore đã xây dựng một hệ thống đặt các tài xế vào một hoàn cảnh mà họ không có quyền để thoải mái dám thực hiện hành vi sai luật, cũng như là cảnh sát cũng được đặt vào một hoàn cảnh mà họ không có quyền để "xử lý nhanh mà không cần lập biên bản".

ĐỪNG TIN NHỮNG GÌ MỘT NGƯỜI NÓI, HÃY NHÌN NHỮNG GÌ HỌ LÀM

Trong doanh nghiệp, hành vi gian dối có thể nói là không thiếu những ví dụ. Có những người làm ở vị trí kế toán, nơi nắm giữ sổ sách và hóa đơn, chứng từ là người nắm "dòng tiền" của cả một doanh nghiệp. Vì sao có những người lại trở nên gian dối, chẳng hạn như ăn cắp tiền của công ty. Nếu như nhìn ở góc nhìn của hiệu ứng Lucifer, rõ ràng là không phải họ sinh ra đã có tính ăn cắp. Mà đơn giản là bởi vì, họ được đặt vào một hoàn cảnh ở đó họ có một quyền để thực hiện hành vi gian dối mà không ai phát hiện ra, ở trong một hệ thống mà nội quy và chính sách có thể lỏng lẻo. Khi thấy cái lợi cho bản thân, mà ở đây là tiền bạc, và có đủ điều kiện để gian dối, họ có thể trở thành một người rất rất gian dối. Liệu bề ngoài, họ có bình thường không? Chắc chắn có họ có thể là một người rất bình thường, thậm chí còn thể hiện ra một người rất tốt bụng. Cho nên khi nhìn ở góc độ ứng dụng hiệu ứng Lucifer, đừng tin những gì một người nói mà hãy nhìn vào điều mà người đó làm. Một doanh nghiệp có thể bị tan nát nếu như hệ thống tài chính không chặt chẽ. Hệ thống tài chính của doanh nghiệp cũng giống như kho lương của doanh trại mà một đội quân đi chinh chiến. Đội quân đó không thể nào chiến đấu nếu như kho lương bị tiêu hủy. Và một người trông giữ kho lương, có thể sẽ là một người rất xấu nếu được phép tạo điều kiện để thực hiện hành vi phá hoại hoặc trộm cắp kho lương đó.

ĐỪNG ĐỂ HOÀN CẢNH LÀM BIẾN ĐỔI CON NGƯỜI

Hiệu ứng Lucifer lý giải rất nhiều những hành vi thuộc về mảng tối của xã hội. Chẳng hạn như một người có thể sa ngã vào nghiện ngập, rượu chè, cờ bạc, gian lận, ngoại tình, đối xử tàn ác với người khác, tham nhũng,… khi họ được rơi vào một hoàn cảnh cho phép họ có thể làm được điều đó. Tuy nhiên, nhìn ở một khía cạnh khác thì đây không phải là một hiệu ứng tiêu cực. Hiệu ứng này giúp chúng ta chấp nhận một sự thật rằng con người ta ai cũng có thể trở thành một người dám làm những chuyện xấu. Và chúng ta dễ làm điều xấu hơn là duy trì những điều tốt.

Do vậy, hiệu ứng Lucifer có thể coi là một nguyên tắc, một lời cảnh tỉnh để mỗi người trong cuộc sống, hãy cố gắng giữ mình ở vai trò một thiên thần, thay vì trở thành ác quỷ.

Nguồn: Sách Thao túng tâm lý

Chúng ta sẽ còn khá nhiều hứng tâm lý nữa khi tìm hiểu sâu Quản trị Nhân sự trên góc nhìn về tâm lý học.

Nguyễn Hùng Cường (kinhcan24)
Tư vấn xây dựng Hệ thống QTNS bài bản

CON NGƯỜI và TINH THẦN

CON NGƯỜI và TINH THẦN 1 –  " Nếu có một gã trọc phú hàng to súng lớn, có thể mua biệt thự alibaba cho em ở, xe lếch xù cho em đi, nạp ...