Search This Blog

Wednesday, March 31, 2021

THIẾT LẬP MỤC TIÊU CHO CÔNG TY THẾ NÀO?

THIẾT LẬP MỤC TIÊU CHO CÔNG TY THẾ NÀO?
Có bài viết của ai đó được share tràn lan trên fb, bảo rằng muốn thiết lập mục tiêu lâu dài (10 năm trở lên) cho cty thì phải bắt đầu từ bước đầu tiên (bước 1) là chọn con đường cạnh tranh, tức cách thức cạnh tranh thế nào. Sau đó, bước tiếp theo (bước 2) là xác định các năng lực lõi của công ty. Sau đó, mới thực hiện bước tiếp theo nữa (bước 3) là thiết lập mục tiêu 10 năm. Và tiếp theo sau là các mục tiêu 5 năm, 1 năm...
Tôi rất ngạc nhiên với trình tự các bước thực hiện như vậy!
* Trước hết, cần hiểu rằng, không thể chọn con đường khi chưa chọn mục tiêu, tức khi chưa biết nó dẫn đến đâu, đích nào, mong đợi kết quả thế nào. Một mục tiêu 5 -  10 năm hoặc lâu hơn là một mục tiêu chiến lược (strategic objective) cho giai đoạn 5 - 10 năm hoặc lâu hơn. Mục tiêu đó phải có trước, phải được thiết lập trước, thì mới có cơ sở để chọn con đường đi (là chiến lược). Chiến lược là "how to get there", là cách thức (cạnh tranh) để đạt mục tiêu. Thế mà trong khi mục tiêu chưa có, lại bảo rằng bước đầu tiên là phải chọn con đường (?). Vậy thì con đường sẽ dẫn đến đâu, khi bạn chưa chọn đích đến?
Tôi lấy ví dụ, nếu mục tiêu là tăng trưởng quy mô và đạt thị phần cao (ví dụ 70%) mà không đặt nặng chuyện lời lỗ thì chiến lược sẽ khác với mục tiêu phải có lợi nhuận 100 tỷ ở năm thứ 10 mà không cần tăng quy mô và thị phần. Mục tiêu khác nhau, con đường sẽ khác nhau. Do vậy, không thể chọn con đường khi chưa xác định mục tiêu!
* Thứ 2, năng lực lõi là thứ phải xác định và đánh giá trước khi chọn con đường đi (tức hoạch định chiến lược). Năng lực lõi của DN (nôm na là thế mạnh vượt trội của nó giúp tạo lợi thế cạnh tranh mà đối thủ rất khó bắt chước) là cơ sở để hoạch định chiến lược (chọn con đường cạnh tranh). Năng lực lõi phải được xác định trước khi lựa chọn chiến lược chứ không phải sau khi đã chọn chiến lược (con đường). Năng lực lõi có thể có sẵn hay tích lũy, hay mua về, nhưng cần xác định rõ các năng lực này trước khi chọn chiến lược, tức con đường cạnh tranh.
Ví dụ, tôi chọn đi đường rừng vì tôi xác định rõ là tôi đang có xe 2 cầu hay đã có đủ tiền để mua xe 2 cầu! Tôi phải xác định là tôi đã có gì trong tay hay sẽ có gì trong tay thì tôi mới dám chọn con đường này mà không chọn đường kia. Ví dụ, tôi biết là tôi học giỏi các môn Toán, Lý, Hóa và có năng khiếu về các môn tự nhiên nên tôi chọn con đường thi vào ĐH ngành kỹ thuật để lấy bằng kỹ sư. Nếu tôi không giỏi Toán Lý Hóa, tức không có năng lực về các môn này mà lại chọn thi ngành kỹ thuật thì làm sao tôi thi đậu và làm sao tôi học nổi để ra trường?
Còn mục tiêu lâu dài (5 - 10 năm, hoặc lâu hơn), và cả con đường để đạt mục tiêu, phải được lựa chọn dựa trên các phân tích vĩ mô, vi mô, bên trong, bên ngoài doanh nghiệp, chứ không phải tự nghĩ ra là được.
Tôi không hiểu vì sao một trình tự thiết lập mục tiêu ngược, phi lôgic, phi thực tế như vậy lại được loan truyền trên fb như là chuẩn mực cho các doanh nghiệp làm theo?
Quan điểm của bạn thì sao?  Bạn chọn đường đi trước khi chọn đích đến hay phải làm ngược lại? Và bạn chọn đường dựa trên nguồn lực và năng lực lõi của mình hay cứ chọn bừa xong rồi mới ngồi xác định năng lực của mình là gì?
* Có khi nào ở SG, bạn chọn con đường ra Bắc, rồi đi thật nhanh, sau đó mới chọn mục tiêu là đến mũi Cà Mau không?

MỤC TIÊU VÀ CON ĐƯỜNG CỦA DOANH NGHIỆP

MỤC TIÊU VÀ CON ĐƯỜNG CỦA DOANH NGHIỆP

Một doanh nghiệp lựa chọn con đường thành công, tức lựa chọn để chiến thắng, tức lựa chọn để cạnh tranh. Đó chính là chiến lược (để cạnh tranh). Có thể chọn cạnh tranh bằng chi phí thấp, hay bằng sự khác biệt hóa, hay bằng thị trường ngách (tập trung), hay hỗn hợp, hay bằng chiến lược đại dương xanh..

Mà đã là chiến lược thì phải được chọn dựa trên năng lực lõi đã được xác định trước đó (cho dù mình đã sẵn có hay phải tích lũy thêm), căn cứ vào mong đợi trước đó (mục tiêu) và dựa vào kết quả các phân tích cẩn trọng về vĩ mô, vi mô, thị trường, các yếu tố bên trong, bên ngoài..., chứ không phải tự nhiên cứ chọn đại một con đường rồi gọi tên nó là xong!

Cty nào chọn giá rẻ là vì họ có năng lực lõi là tạo ra chi phí thấp, và họ đã đặt mục tiêu tăng quy mô hay thị phần hay gì đó trước khi chọn con đường giá rẻ để bán thật nhiều. Cty chọn con đường khác biệt hóa khi họ có năng lực lõi tạo ra sự khác biệt vượt trội. 

Tôi lấy ví dụ, khi lập Group PTDNV, nếu tôi đặt mục tiêu là phục vụ cho một nhóm nhỏ chỉ khoảng 100 bạn bè thân quen, tôi sẽ chọn con đường khác để đi; còn nếu tôi đặt mục tiêu phục vụ cho 1 triệu doanh nhân và quản lý, tôi phải chọn con đường khác để hoạt động. Thực tế, tôi đã chọn mục tiêu phục vụ hàng triệu người nên con đường đi của Group PTDNV mới như thế này suốt 6 năm qua đến tận hôm nay. Và lý do tôi chọn con đường phục vụ triệu người là vì tôi thấy năng lực lõi của mình đủ sức phục vụ.

Còn mục tiêu cũng không phải muốn đặt thế nào thì đặt. Mục tiêu cũng phải dựa vào năng lực lõi và các điều kiện bên trong, bên ngoài như tôi đã đề cập ở trên. Mọi người hãy đọc thật kỹ bài viết này và suy nghĩ thêm những mục tiêu dài hạn và con đường để đạt mục tiêu đi nhé! Con đường đó chính là chiến lược!

* Khi một bà bán phở đặt mục tiêu là chỉ kiếm mỗi tháng 10 triệu đủ xài và bán trong hẻm nhỏ, con đường làm ăn của bà sẽ khác. Còn nếu bà đặt mục tiêu sau 10 năm sẽ đưa chuỗi phở của bà đạt 200 quán trên toàn quốc, đem lại doanh thu 2000 tỷ/năm thì con đường đi (chiến lược) của bà sẽ khác. Chọn con đường nào, bà phải dựa và năng lực và khát khao, kỳ vọng của mình. Nếu khát khao kiếm 10 tr/tháng, con đường sẽ khác. Nếu khát vọng kiếm 10 tỷ/tháng, con đường sẽ khác.

** Cần lưu ý rằng con đường thành công hay chiến lược cạnh tranh của DN cũng có thể thay đổi theo thời gian, phụ thuộc vào những biến động bên ngoài, bên trong, và tùy thuộc vào mong đợi, khát vọng, mục tiêu của người đứng đầu DN. Con đường là để phục vụ cho mục tiêu. Nếu mục tiêu là nghỉ ngơi, không làm gì, chủ DN sẽ bán hết, bỏ hết, thanh lý hết, và con đường kinh doanh sẽ đóng lại!

Đọc thêm bài này:


Nguyen huu long 

Tuesday, March 30, 2021

Mô hình kinh doanh

CHIẾN LƯỢC - là rất quan trong không chỉ phát triển 1 tạp đoàn, 1 công ty mà nó cần thiết cho các các bộ phận và cá nhân. Nhiều lần anh Long Nguyen Huu cũng đã nhắc nhở vấn đề này. 
Ngày hôm nay, em xin phép chia sẻ về 1 hoạt động cũng là 1 phần Chiến lược đó là XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH.
Đây là bài viết cung cấp cho các nhà quản lý trẻ, các bạn dự định khởi nghiệp, hoặc nó cũng có thể hữu ích với các Công ty đang cần xem xét lại tổng thể các hoạt động của mình và F5 
Bài viết thực sự rất dài, hi vọng mọi người có thể đọc hết để Thảo luận và đóng góp ý kiến ạ. Cám ơn mọi người, lần đầu tiên lên bài vì nhận được nhiều quá giá trị từ đây, hi vọng bài viết này sẽ có ích ạ.
Bài viết có 10 phần a
 MỘT KẾ HOẠCH KINH DOANH TUYỆT VỜI
LỜI MỞ ĐẦU
Có thể bạn nghĩ rằng không cần từng bước để viết 1 kế hoạch kinh doanh tuyệt vời. Có thể bạn nghĩ rằng không cần mẫu để viết kế hoạch kinh doanh. Thực tế là, có những doanh nhân thành công mà không cần viết một kế hoạch kinh doanh. Họ nắm bắt thời điểm tuyệt vời, kỹ năng kinh doanh vững chắc, khả năng kinh doanh thiên phú cộng với chút may mắn, một số người sáng lập doanh nghiệp phát triển mà không cần lập ngay cả kế hoạch kinh doanh không chính thức.
Nhưng, con số các doanh nhân thất bại vì không có một kế hoạch kinh doanh bài bản lại chiếm đa số!
Một kế hoạch kinh doanh có làm nên thành công của 1 Startup ko? Chắc chắn không.
Sự thực là có nhiều kế hoạch kinh doanh viển vông, không thực tế. Đó là vì nhiều doanh nhân tham vọng coi kế hoạch kinh doanh chỉ đơn giản là một công cụ – chứa đầy các chiến lược và dự báo mang tính cường điệu – thiếu thực tế và không thuyết phục.
Đó là một sai lầm lớn!
Một kế hoạch kinh doanh vững chắc phải là một kế hoạch chi tiết để doanh nghiệp thành công. Nó nên xác định các kế hoạch chiến lược, phát triển các kế hoạch tiếp thị và bán hàng, tạo nền tảng trơn tru.
Đối với nhiều doanh nhân, xây dựng kế hoạch kinh doanh là bước đầu tiên trong quá trình quyết định có thực sự khởi nghiệp hay không, xác định xem ý tưởng kinh doanh đó có thất bại trên giấy hay không. Điều này có thể giúp chính họ – một nhà sáng lập tương lai – tránh lãng phí thời gian, tiền bạc vào một công việc kinh doanh không có hy vọng thành công thực tế.
Vì vậy, tối thiểu kế hoạch kinh doanh của bạn nên:
· Hãy khách quan và logic nhất có thể. Có đôi khi, một ý tưởng được cho là tốt với doanh nghiệp. Nhưng sau khi được mọi người suy nghĩ, phân tích, ý tưởng đó lại không khả thi vì có sự cạnh tranh gay gắt, không đủ kinh phí, không tiềm năng, hoặc thị trường không tồn tại. (Cũng có đôi khi, ngay cả những ý tưởng hay nhất cũng chỉ là đi trước thời đại).
· Đóng vai trò hướng dẫn hoạt động của doanh nghiệp trong những tháng đầu tiên và đôi khi là nhiều năm. Tạo ra một kế hoạch chi tiết cho các nhà lãnh đạo, quản lý của công ty tuân theo.
· Truyền đạt mục tiêu và tầm nhìn của công ty. Mô tả trách nhiệm quản lý, yêu cầu chi tiết về nhân sự, cung cấp tổng quan về kế hoạch tiếp thị, đánh giá sự cạnh tranh hiện tại và tương lai trên thị trường.
· Tạo nền tảng cho một 1 đề xuất tài trợ với các nhà đầu tư, cho vay sử dụng để đánh giá công ty.
Một kế hoạch kinh doanh tốt đi sâu vào từng hạng mục trên và hoàn thành các mục tiêu khác. Hơn hết, một kế hoạch kinh doanh tốt là phải THUYẾT PHỤC. Nó chứng minh, nó cung cấp bằng chứng thực tế, cụ thể cho thấy ý tưởng kinh doanh của bạn trên thực tế là đúng đắn, hợp lý và có nhiều cơ hội để thành công.
Vậy AI là người cần được thuyết phục từ kế hoạch kinh doanh?
1. Là bạn! Chắc chắn là như vậy.
Đầu tiên và quan trọng nhất, kế hoạch kinh doanh của bạn phải thuyết phục được bạn rằng ý tưởng của nó có ý nghĩa – bởi vì thời gian, tiền bạc và công sức của bạn đang ở trong đó. Kế hoạch này phải thuyết phục được bạn rằng: ý tưởng kinh doanh của bạn không chỉ là giấc mơ, mà có thể trở thành hiện thực vì tính khả thi cao của nó.
Doanh nhân, về bản chất là những người tự tin, tích cực, sẵn sàng chiến đấu. Vậy sau khi bạn đánh giá khách quan về nhu cầu vốn, sản phẩm hoặc dịch vụ, cạnh tranh, kế hoạch tiếp thị, và tiềm năng tạo ra lợi nhuận, bạn sẽ nắm bắt những cơ hội thành công của mình tốt hơn.
Và nếu bạn không bị thuyết phục – đơn giản thôi – hãy lùi lại một bước và tình chỉnh ý tưởng, các kế hoạch của bạn
2. Các nguồn tài chính tiềm năng: Nếu bạn cần tiền đầu tư từ ngân hàng, bạn bè, người thân, thì kế hoạch kinh doanh của bạn là công cụ tốt nhất để làm điều đó. Báo cáo tài chính cho thấy bạn đang ở đâu, dự báo tài chính mô tả nơi bạn dự định đi.
Kế hoạch kinh doanh của bạn cho thấy bạn sẽ đạt được điều đó như thế nào. Cho vay đương nhiên sẽ có rủi ro vậy nên một kế hoạch kinh doanh tuyệt vời sẽ giúp người cho vay hiểu và định lượng được rủi ro, quản trị được nó, điều đó làm tăng cơ hội được chấp thuận của bạn.
3. Các đối tác, nhà đầu tư tiềm năng: Khi các nguồn tài chính tiềm năng lo ngại, hay đơn giản là bạn không muốn ảnh hưởng đến các vấn đề khác thì việc chia sẻ kế hoạch kinh doanh với họ là không cần thiết, dù bạn có tự tin chắc chắn vào nó.
Hãy tìm kiếm các nhà đầu tư tiềm năng khác, và kế hoạch kinh doanh giúp họ đánh giá được công ty của bạn rất nhanh và có thể đưa ra quyết định sớm hơn.
4. Nhân sự chủ chốt, chất lượng:Khi bạn cần thu hút nhân tài, bạn cần một thứ gì đó để thể hiện rằng hợp tác với bạn sẽ có triển vọng, tiềm năng lớn trong tương lai, mặc dù bạn đang khởi nghiệp. Ở giai đoạn này, doanh nghiệp của bạn chỉ là một ý tưởng, chưa phải là hiện thực. Vì vậy, kế hoạch kinh doanh của bạn sẽ giúp các nhân sự tiềm năng hiểu được mục tiêu của bạn, và quan trọng hơn là vị trí của họ trong kế hoạch đó: họ phải làm gì trong việc góp phần đạt được mục tiêu, và cái mà họ sẽ nhận được khi cùng bạn đi đến mục tiêu đó.
5. Liên doanh, đối tác tiềm năng: Các mối quan hệ đối tác trong việc cùng phát triển dịch vụ, sản phẩm sẽ dựa trên các thỏa thuận chính thức để chia sẻ công việc, chia sẻ doanh thu và lợi nhuận. Là một công ty mới, bạn có thể là một ẩn số X trên thị trường, việc thiết lập liên doanh, đối tác với các đối tác lâu đời, thương hiệu tốt có thể tạo ra sự khác biệt rất lớn trong viêc đưa doanh nghiệp của bạn thành công.
Trên hết, vẫn như quan điểm đầu tiên, kế hoạch kinh doanh của bạn phải thuyết phục bạn rằng việc tiến lên phía trước là hợp lý.
Khi vạch ra kế hoạch kinh doanh, bạn phát hiện ra những vấn đề thách thức mà bạn không lường trước được. Có thể thị trường không lớn như bạn nghĩ. Có thể sau khi đánh giá đối thủ, bạn nhận ra rằng kế hoạch trở thành nhà cung cấp với chi phí thấp của mình là không khả thi vì tỉ suất lợi nhuận quá thấp không bù đắp được chi phí… Hoặc cũng có thể bạn nhận ra ý tưởng cơ bản cho doanh nghiệp của mình là đúng đắn, nhưng cách bạn thực hiện sẽ thay đổi….
Nghĩ theo cách này, các doanh nghiệp thành công không đứng yên. Họ học hỏi từ sai lầm, thích ứng và phản ứng với những thay đổi của thị trường, nền kinh tế, khách hàng, sản phẩm và dịch vụ của họ. Các doanh nghiệp thành công xác định được cơ hội và thách thức song hành, và có phản ứng phù hợp với nó.
Kế hoạch kinh doanh như một mũi khoan thăm dò vào thị trường, hay như một ngón chân bạn chạm vào "nước thị trường", đó là một biện pháp tốt để bạn xem xét, sửa đổi các ý tưởng, khái niệm của bạn trước khi bạn đầu tư nhiều tiền bạc, thời gian và công sức. Hãy xem kế hoạch kinh doanh như là một cách không tốn kém và rất hiệu quả để khám phá khả năng tồn tại của doanh nghiệp và tránh các sai lầm, tổn thất.
Sự khác biệt giữa thành công và thất bại sẽ nằm ở kế hoạch kinh doanh này. Một kế hoạch chứa đựng ước mơ kinh doanh của bạn, bạn làm mọi thứ ở trong đó để có thể tạo nên tiền đề thành công.
Và đó là lí do một kế hoạch kinh doanh tuyệt vời là công cụ giúp bạn thành công và quản trị các vấn đề kinh doanh. Dưới đây là từng phần của một kế hoạch kinh doanh điển hình:
1. Tóm tắt dự án.
2. Tổng quan và mục tiêu.
3. Sản phẩm và dịch vụ.
4. Cơ hội thị trường.
5. Bán hàng và maketing.
6. Phân tích cạnh tranh.
7. Hoạt động.
8. Nhóm quản lý.
9. Phân tích tài chính.
Chúng ta hãy cùng tìm hiểu từng phần chi tiết.
PHẦN 1: TÓM TẮT DỰ ÁN
Ở phần này, bạn hãy tóm tắt, phác thảo ngắn gọn về mục đích và mục tiêu của doanh nghiệp.
Điều này có thể khó trong 1 hay 2 trang giấy những hãy tóm tắt các ý chính sau:
· Mô tả ngắn gọn về sản phẩm dịch vụ.
· Tóm tắt các mục tiêu.
· Mô tả chính xác về thị trường.
· Lí do mà doanh nghiệp bạn có thể tồn tại (bao gồm cả việc thông tin nhanh về đối thủ và lợi thế cạnh tranh).
· Biều đồ về tiềm năng tăng trưởng.
· Tổng quan về các yêu cầu đầu tư.
Hãy coi phần này như một bức tranh khái quát kế hoạch của bạn. Đừng cố gắng thổi phồng doanh nghiệp của bạn, hãy hình dung bạn đang viết cho 1 người rất bận rộn đọc phần này, vậy nên hãy tập trung vào việc giúp họ có được cảm nhận tổng thể tuyệt vời về những gì bạn dự định làm và cách mà bạn sẽ thành công.
Phần tóm tắt dự án sẽ giúp bạn những điều sau:
· Tinh chỉnh và tinh chuẩn khái niệm của bạn,
· Xác định ưu tiên của bạn,
· Làm cho các phần còn lại dễ dàng hơn.
Hãy để sự hào hứng của bạn đối với ý tưởng và doanh nghiệp của bạn được tỏa sáng. Hãy để người đọc muốn tiếp tục lật các trang sau với 1 sự hứng khởi, hứng thú!
VÍ DỤ KHUNG:
1. Giới thiệu.
2. Công ty và Quản lý.
3. Cơ hội thị trường.
4. Lợi thế cạnh tranh
5. Dự toán tài chính
Note: Cung cấp các điểm chính một cách tóm tắt.
PHẦN 2: TỔNG QUAN VÀ MỤC TIÊU
Cung cấp một cái nhìn tổng thể về doanh nghiệp của bạn trong việc lập kế hoạch này thực sự khó khăn. Nếu bạn có sẵn 1 doanh nghiệp đang vận hành, thì điều đó sẽ dễ dàng hơn rất nhiều, nếu không thì sẽ khó hơn khi bạn miêu tả doanh nghiệp mình sẽ trở thành gì với ai đó.
Vì vậy, hãy bắt đầu bằng cách lùi lại 1 bước để nhìn bức tranh tổng thể hơn.
Hãy suy nghĩ về sản phẩm và dịch vụ bạn cung cấp, cách bạn cung cấp sản phẩm dịch vụ (SPDV) đó, bạn phải cần có gì để cung cấp SPDV đó, chính xác ai sẽ cung cấp SPDV đó và cung cấp SPDV đó cho ai?
Hãy xem lại phần ví dụ về Labhouse. Nó phục vụ khách hàng cá nhân, gia đình, khách hàng lẻ là chủ yếu. Cốt lõi của hoạt động kinh doanh là dựa trên giao tiếp trực tiếp với khách hàng để lấy mẫu và tư vấn. Phần lớn các hoạt động chăm sóc khách hàng (CSKH) dựa trên nền tảng kỹ thuật số. Vì vậy nó cần 1 vị trí địa lý phù hợp, hạ tầng cơ sở phòng Lab, các thiết bị y tế, nhân sự chuyên môn, các công cụ chuyên nghiệp, các công nghệ 4.0 hỗ trợ…
Tóm lại:
- Bạn sẽ cung cấp những gì?
- Bạn cần gì để vận hành doanh nghiệp của mình?
- Ai sẽ phục vụ khách hàng của bạn?
- Khách hàng của bạn là ai?
Trong ví dụ về Labhouse, khách hàng có phải phần lớn là những người có ý thức và quan tâm đến việc quản lý sức khỏe trước khi xảy ra các vấn đề bệnh lý?
Trong các doanh nghiệp khác, trả lời các câu hỏi trên có thể khó hơn. Nếu bạn mở một nhà hàng, những gì bạn dự định phục vụ ở phân khúc khách hàng nào đó sẽ quyết định nhu cầu lao động của bạn, địa điểm bạn chọn, thiết bị bạn cần mua. Và, quan trọng nhất, nó sẽ giúp xác định khách hàng của bạn. Thay đổi bất kỳ một yếu tố nào có thể thay đổi các yếu tố khác; nếu bạn không có khả năng mua thiết bị nhà bếp đắt tiền, bạn có thể cần điều chỉnh thực đơn của mình cho phù hợp. Nếu bạn hy vọng thu hút được lượng khách hàng cao cấp, bạn có thể cần phải đầu tư nhiều hơn vào việc mua một vị trí đắc địa và tạo ra một bầu không khí hấp dẫn.
Vậy bạn phải bắt đầu từ đâu? Tập trung vào những điều cơ bản trước:
- Xác định ngành của bạn: Bán lẻ, bán buôn, dịch vụ, sản xuất…
- Xác định rõ loại hình kinh doanh của bạn.
- Xác định khách hàng của bạn. Bạn không thể tiếp thị và bán cho khách hàng cho đến khi bạn biết họ là ai.
- Giải thích vấn đề bạn giải quyết. Các doanh nghiệp thành công tạo ra giá trị khách hàng bằng cách giải quyết vấn đề.
- Chỉ ra cách bạn sẽ giải quyết vấn đề đó.
Nếu bạn vẫn còn vướng mắc, hãy thử trả lời những câu hỏi này:
- Khách hàng đa số của tôi là ai? Tôi đang nhắm mục tiêu vào ai? (Trừ khi bạn dự định mở một cửa hàng bách hóa, nếu không, bạn sẽ không thể trả lời: "Mọi người!").
- Tôi giải quyết được điểm đau nào cho khách hàng của mình?
- Tôi giải quyết được điểm đó như thế nào?
- Tôi sẽ không giải quyết được vấn đề của khách hàng ở đâu và tôi có thể làm gì để khắc phục vấn đề đó?
- Tôi sẽ đặt doanh nghiệp của mình ở đâu?
- Tôi cần những sản phẩm, dịch vụ và thiết bị nào để vận hành doanh nghiệp của mình?
- Nhân viên của tôi cần những kỹ năng gì và tôi cần bao nhiêu kỹ năng?
- Tôi sẽ đánh bại đối thủ của mình như thế nào?
- Làm cách nào tôi có thể phân biệt bản thân với đối thủ cạnh tranh trong mắt khách hàng? (Bạn có thể có một kế hoạch tuyệt vời để đánh bại đối thủ của mình, nhưng bạn cũng phải giành chiến thắng trong cuộc chiến nhận thức giữa các khách hàng. Nếu khách hàng không cảm thấy bạn khác biệt, thì bạn không thực sự khác biệt. Nhận thức là rất quan trọng.)
Một khi bạn bắt đầu làm việc với những câu hỏi như thế này, tức là bạn đang phân giải các vấn đề rất cốt lõi cần thiết.
VÍ DỤ KHUNG:
1. Tầm nhìn:
2. Mục tiêu:
3. Chìa khóa thành công:
PHẦN 3: SẢN PHẨM VÀ DỊCH VỤ
Trong phần Sản phẩm và Dịch vụ của kế hoạch kinh doanh, bạn sẽ mô tả rõ ràng – đúng các sản phẩm dịch vụ mà doanh nghiệp của bạn sẽ cung cấp.
Hãy nhớ rằng mô tả kỹ thuật hoặc chi tiết là không cần thiết. Sử dụng các thuật ngữ đơn giản và tránh các từ chuyên ngành.
Mặt khác, việc mô tả sản phẩm và dịch vụ của công ty sẽ khác với đối thủ cạnh tranh như thế nào là rất quan trọng. Vì vậy, hãy mô tả lý do tại sao sản phẩm và dịch vụ của bạn là cần thiết với thị trường hiện tại.
Tùy thuộc vào tính chất kinh doanh của bạn, phần Sản phẩm và Dịch vụ của bạn có thể rất dài hoặc tương đối ngắn. Nếu doanh nghiệp của bạn tập trung vào sản phẩm, bạn sẽ muốn dành nhiều thời gian hơn để mô tả các sản phẩm đó.
Nếu bạn định bán một mặt hàng và chìa khóa thành công của bạn nằm ở giá cả cạnh tranh, bạn có thể không cần cung cấp chi tiết sản phẩm quan trọng. Hoặc nếu bạn dự định bán một loại hàng hóa có sẵn ở nhiều cửa hàng khác nhau, thì chìa khóa cho doanh nghiệp của bạn có thể không phải là bản thân hàng hóa, mà là khả năng tiếp thị theo cách tiết kiệm chi phí hơn so với đối thủ cạnh tranh.
Còn trong trường hợp ví dụ về Labhouse, việc bán hàng chủ yếu dựa trên vấn đề thay đổi nhận thức của khách hàng về dịch vụ và hoạt động liên kết trong việc bán hàng, thì sẽ cần mô tả kĩ về phần này.
Nhưng nếu bạn đang tạo ra 1 sản phẩm hoặc dịch vụ mới, hãy giải thích cặn kẽ bản chất của SPDV, công dụng giá trị của nó… nếu ko người đọc (nghe) không có đủ thông tin để đánh giá doanh nghiệp của bạn.
Các câu hỏi chính cần bạn trả lời đó là:
- SPDV của bạn đang phát triển hiện có, đã có, ko có trên thị trường?
- Lộ trình để bạn đưa SPDV mới ra thị trường là gì?
- SPDV của bạn có gì khác biệt? Có lợi thế cạnh tranh so với các SPDV từ đối thủ khác hay ko? Có nhược điểm cạnh tranh nào cần khắc phục? (khắc phục nó thế nào?)
- Giá cả của SPDV này có phải là vấn đề?
- Chi phí hoạt động của bạn có cân đối để cho phép tỉ suất lợi nhuận hợp lý hay không?
- Bạn sẽ mua SPDV của mình như thế nào?
VÍ DỤ KHUNG:
- Mô tả sản phẩm:
- Lưu ý về SP:
- Lợi thế:
- Sản phẩm tương lai:
PHẦN 4: CƠ HỘI THỊ TRƯỜNG
Nghiên cứu thị trường là rất quan trọng để thành công trong kinh doanh. Một kế hoạch kinh doanh tốt là phân tích và đánh giá nhân khẩu học của khách hàng, thói quen mua hàng, chu kỳ mua hàng và mức độ sẵn sàng chấp nhận các sản phẩm và dịch vụ mới.
Quá trình bắt đầu với việc hiểu thị trường của bạn và các cơ hội vốn có trên thị trường đó. Điều đó có nghĩa là bạn sẽ cần phải nghiên cứu một chút. Trước khi bắt đầu kinh doanh, bạn phải chắc chắn rằng có một thị trường khả thi cho những gì bạn định cung cấp.
Hãy bắt đầu bằng cách đánh giá thị trường ở cấp độ tương đối sâu, trả lời một số câu hỏi chi tiết về thị trường và ngành của bạn:
- Quy mô của thị trường bao nhêu? Nó đang phát triển, ổn định hay đang suy giảm?
- Nền kinh tế và xã hội tổng thể đang phát triển, ổn định hay đang suy giảm?
- Tôi định nhắm vào phân khúc thị trường nào? Nhân khẩu học và hành vi nào tạo nên thị trường mà tôi định nhắm mục tiêu?
- Nhu cầu về các sản phẩm và dịch vụ cụ thể của tôi đang tăng hay giảm?
- Tôi có thể phân biệt bản thân với đối thủ theo cách mà khách hàng sẽ thấy có ý nghĩa không? Nếu vậy, tôi có thể làm được điều một cách tiết kiệm chi phí không?
- Những gì khách hàng mong đợi để trả cho các sản phẩm và dịch vụ của tôi? Chúng được coi là hàng hóa, giải pháp, công cụ hay được tùy chỉnh và cá nhân hóa?
Hãy vào sâu hơn các căn cứ về các số liệu, dữ liệu liên quan đến khách hàng tiềm năng:
- Vị trí địa lý
- Tổng số dân cư
- Thu nhập trung bình
- Thu nhập theo nhân khẩu học
- Độ tuổi, giới tính
Luôn nhớ rằng phục vụ một thị trường mà bạn có thể xác định và định lượng sẽ dễ dàng hơn nhiều.
Báo động dành cho bạn:Sau khi hoàn thành nghiên cứu, bạn có thể cảm thấy hơi choáng ngợp. Mặc dù dữ liệu tốt và nhiều dữ liệu hơn là điều tuyệt vời, nhưng việc sàng lọc và hiểu quá nhiều dữ liệu có thể khiến bạn nản lòng.
Vì mục đích của kế hoạch kinh doanh của bạn, hãy thu hẹp trọng tâm và tập trung vào việc trả lời những câu hỏi chính sau:
- Thị trường của bạn là gì? Bao gồm mô tả địa lý, nhân khẩu học mục tiêu và hồ sơ công ty (nếu bạn là B2B). Tóm lại: Khách hàng của bạn là ai?
- Bạn sẽ tập trung vào phân khúc thị trường nào? Bạn sẽ cố gắng tìm ra thị trường ngách nào? Bạn hy vọng sẽ chiếm bao nhiêu phần trăm thị trường đó?
- Quy mô thị trường dự định thời điểm đầu của bạn là bao nhiêu? Dân số và thói quen, mức chi tiêu là gì?
- Tại sao khách hàng cần và tại sao họ sẽ sẵn sàng mua sản phẩm và dịch vụ của bạn?
- Bạn sẽ định giá sản phẩm và dịch vụ của mình như thế nào? Bạn sẽ là nhà cung cấp chi phí thấp hay cung cấp các dịch vụ giá trị gia tăng với giá cao hơn?
- Thị trường của bạn có khả năng phát triển không? Bao nhiêu? Tại sao?
- Bạn có các phương án tăng thị phần như thế nào?
VÍ DỤ KHUNG:
- Tóm tắt thị trường
- Xu hướng thị trường
- Tăng trưởng thị trường
- Nhu cầu thị trường
PHẦN 5: BÁN HÀNG VÀ MAKETING
Cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tuyệt vời là điều tuyệt vời, nhưng khách hàng phải thực sự biết những sản phẩm và dịch vụ đó tồn tại. Đó là lý do tại sao các kế hoạch và chiến lược tiếp thị rất quan trọng đối với sự thành công của doanh nghiệp.
Nhưng hãy nhớ rằng tiếp thị không chỉ là quảng cáo, quan hệ công chúng, hình ảnh quảng cáo, thông điệp… mà còn là hoạt động đầu tư vào sự phát triển doanh nghiệp của bạn. Ở đây tôi muốn nhấn mạnh một chút, nếu bạn coi hoạt động tiếp thị có thêm ý nghĩa là đầu tư vào sự phát triển của doanh nghiệp thì bạn hoàn toàn có thể cân nhắc mức đầu tư phù hợp, tạo ra các chiến dịch thông minh, và lợi nhuận thu lại ko chỉ là mỗi doanh thu thời điểm đó mà còn lợi các vấn đê khác.
Đây là 1 số các câu hỏi, vấn đề bạn quan tâm khi tạo kế hoạch tiếp thị:
- Tập trung vào thị trường mục tiêu của bạn. Khách hàng của bạn là ai? Bạn sẽ nhắm đến ai? Ai đưa ra quyết định? Xác định cách bạn có thể tiếp cận khách hàng tiềm năng tốt nhất.
- Đánh giá sự cạnh tranh của bạn. Kế hoạch tiếp thị của bạn phải đặt bạn khác biệt với đối thủ cạnh tranh, và bạn không thể nổi bật trừ khi bạn biết đối thủ của mình. (Thật khó để nổi bật giữa đám đông nếu bạn không biết đám đông đứng ở đâu.). Biết đối thủ cạnh tranh của bạn bằng cách thu thập thông tin về sản phẩm, dịch vụ, chất lượng, giá cả và các chiến dịch quảng cáo của họ. Về mặt tiếp thị, đối thủ cạnh tranh của bạn làm gì mà hoạt động tốt? Điểm yếu của họ là gì? Làm thế nào bạn có thể tạo một kế hoạch tiếp thị làm nổi bật những lợi thế bạn cung cấp cho khách hàng?
- Xem xét thương hiệu của bạn. Cách khách hàng cảm nhận về doanh nghiệp của bạn sẽ tác động đáng kể đến doanh số bán hàng. Chương trình tiếp thị của bạn phải liên tục củng cố và mở rộng thương hiệu của bạn. Trước khi bạn bắt đầu tiếp thị doanh nghiệp của mình, hãy nghĩ về cách bạn muốn hoạt động tiếp thị phản ánh về doanh nghiệp cũng như các sản phẩm và dịch vụ của bạn. Tiếp thị là bộ mặt của bạn đối với khách hàng tiềm năng – hãy đảm bảo rằng bạn thể hiện tốt nhất bộ mặt của mình.
- Tập trung vào lợi ích. Bạn giải quyết những vấn đề gì? Bạn mang lại lợi ích gì? Khách hàng không nghĩ về sản phẩm – họ nghĩ về lợi ích và giải pháp. Kế hoạch tiếp thị của bạn nên xác định rõ ràng những lợi ích mà khách hàng sẽ nhận được. Tập trung vào những gì khách hàng nhận được thay vì những gì bạn cung cấp.
- Tập trung vào sự khác biệt. Sản phẩm và dịch vụ của bạn phải nổi bật so với đối thủ theo một cách nào đó. Bạn sẽ cạnh tranh như thế nào về giá cả, sản phẩm hoặc dịch vụ?
Sau đó hãy tập trung vào việc cung cấp chi tiết và kế hoạch dự phòng nếu bạn thất bại.
Các câu hỏi chính bạn cần trả lời:
- Ngân sách cho các hoạt động bán hàng và tiếp thị là bao nhiêu?
- Bạn sẽ cần đánh giá xem những nỗ lực tiếp thị ban đầu của bạn có khả năng thành công như thế nào. Bạn sẽ giải quyết, hay thích ứng như thế nào nếu những nỗ lực ban đầu không thành công?
- Bạn sẽ cần đại diện bán hàng (bên trong hoặc bên ngoài) để quảng bá sản phẩm của mình.
- Bạn có thể thiết lập các hoạt động công chúng, hoạt động cộng đồng để giúp tiếp thị doanh nghiệp của mình không?
VÍ DỤ KHUNG:
- Thị trường mục tiêu
- Chiến lược tiếp thị
- Chiến lược định giá
PHẦN 6: PHÂN TÍCH CẠNH TRANH
Phần này được dành để phân tích sự cạnh tranh của bạn – cả đối thủ cạnh tranh hiện tại và những đối thủ tiềm năng có thể tham gia thị trường của bạn.
Trên thực tế, các doanh nghiệp nhỏ có thể đặc biệt dễ bị cạnh tranh, đặc biệt là khi mới tham gia thị trường.
Phân tích cạnh tranh có thể vô cùng phức tạp và tốn thời gian, nhưng không nhất thiết phải như vậy. Dưới đây là một quy trình đơn giản mà bạn có thể làm theo để xác định, phân tích và xác định điểm mạnh và điểm yếu của đối thủ cạnh tranh.
1. HỒ SƠ ĐỐI THỦ CẠNH TRẠNH HIỆN TẠI
Đầu tiên, hãy liệt kê các đối thủ cạnh tranh hiện tại và các vấn đề sau:
- Điểm mạnh của họ là gì? Giá cả, dịch vụ, sự tiện lợi…
- Điểm yếu của họ là gì? Điểm yếu là cơ hội bạn nên lên kế hoạch để tận dụng.
- Mục tiêu cơ bản của dịch vụ của họ là gì? Họ có tìm cách giành thị phần không ?Họ có cố gắng thu hút khách hàng cao cấp không? Họ đang cố gắng đạt được điều gì và đang làm nó như thế nào?
- Họ sử dụng những chiến lược tiếp thị nào? Nhìn vào quảng cáo, quan hệ công chúng…
- Làm thế nào bạn có thể lấy thị phần khỏi doanh nghiệp của họ?
- Họ có thể phản ứng như thế nào khi bạn tham gia thị trường?
(*Có cơ hội nào để biến đối thủ thành đối tác ko?)
Để thu thập thông tin bạn cũng có thể:
- Kiểm tra các trang web và tài liệu tiếp thị của họ. Hầu hết thông tin bạn cần về sản phẩm, dịch vụ, giá cả và mục tiêu của công ty phải luôn sẵn sàng. Nếu họ ko có thông tin đó, có thể bạn đã xác định được điểm yếu.
- Ghé thăm địa điểm của họ. Nhìn xung quanh. Kiểm tra các tài liệu bán hàng và tài liệu quảng cáo. Nhờ bạn bè ghé vào hoặc gọi điện để hỏi thông tin.Dùng thử dịch vụ, sản phẩm của họ.
- Đánh giá các chiến dịch tiếp thị và quảng cáo của họ. Nó sẽ giúp bạn nhanh chóng xác định vị trí của công ty, đối tượng tiếp thị và những chiến lược mà công ty họ sử dụng để tiếp cận khách hàng tiềm năng.
- Tìm kiếm trên Internet để biết tin tức, quan hệ công chúng và các đề cập liên quan về đối thủ cạnh tranh của bạn. Tìm kiếm các blog và nguồn cấp dữ liệu như mạng xã hội cũng như các trang web đánh giá và đề xuất. Mặc dù hầu hết thông tin bạn tìm thấy chỉ là giai thoại (PR) và chỉ dựa trên ý kiến ​​của một vài người, nhưng ít nhất bạn có thể hiểu được cách một số người tiêu dùng cảm nhận về sự cạnh tranh của bạn.
- Ngoài ra, bạn cũng có thể nhận được thông tintrước về kế hoạch mở rộng, thị trường mới mà họ dự định gia nhập hoặc những thay đổi trong quản lý của họ.
- Hoặc tìm hiểu thêm thông tin từ đối thủ thông qua hoạt động tuyển dụng.
Hãy nhớ rằng phân tích cạnh tranh không chỉ giúp bạn hiểu được sức cạnh tranh của mình. Phân tích cạnh tranh cũng có thể giúp bạn xác định những thay đổi bạn nên thực hiện đối với chiến lược kinh doanh của mình . Học hỏi từ điểm mạnh của đối thủ cạnh tranh, tận dụng điểm yếu của đối thủ cạnh tranh và áp dụng phân tích tương tự vào kế hoạch kinh doanh của riêng bạn. Bạn có thể ngạc nhiên, bất ngờ bởi những gì bạn có thể tìm hiểu về doanh nghiệp của mình bằng cách đánh giá các doanh nghiệp khác.
2. XÁC ĐỊNH CÁC ĐỐI THỦ CẠNH TRANH TIỀM NĂNG
Có thể khó dự đoán khi nào và ở đâu các đối thủ mới có thể xuất hiện. Hãy thường xuyên tìm kiếm tin tức về ngành, sản phẩm, dịch vụ của bạn và thị trường mục tiêu của bạn.
Có thể bạn xác định ngành mà bạn theo đuổi có tiềm năng cạnh tranh cao hay không bằng các dữ liệu sau:
- Ngành này có tỷ suất lợi nhuận tương đối cao;
- Tham gia thị trường tương đối dễ dàng và không tốn kém;
- Thị trường đang phát triển – nó phát triển càng nhanh thì nguy cơ cạnh tranh càng lớn;
- Cung và cầu đang tắt – cung thấp và cầu cao;
- Rất ít cạnh tranh tồn tại, vì vậy có rất nhiều "dư địa" cho những người khác tham gia thị trường.
Bây giờ, hãy đúc kết lại bằng cách trả lời các câu hỏi sau cho phần này:
- Đối thủ cạnh tranh hiện tại của tôi là ai? Thị phần của họ là gì? Họ thành công như thế nào?
- Các đối thủ cạnh tranh hiện tại nhắm đến thị trường nào? Họ tập trung vào một loại khách hàng cụ thể, vào việc phục vụ thị trường đại chúng hay vào một thị trường ngách cụ thể?
- Các doanh nghiệp cạnh tranh đang phát triển hay thu hẹp quy mô hoạt động của họ? Tại sao? Điều đó có ý nghĩa gì đối với doanh nghiệp của bạn?
- Làm thế nào công ty của bạn sẽ khác với đối thủ cạnh tranh? Bạn có thể khai thác những điểm yếu nào của đối thủ cạnh tranh? Bạn sẽ cần phải vượt qua những điểm mạnh nào của đối thủ để thành công?
- Bạn sẽ làm gì nếu đối thủ cạnh tranh bỏ thị trường? Bạn sẽ làm gì để tận dụng cơ hội?
- Bạn sẽ làm gì nếu các đối thủ mới tham gia vào thị trường? Bạn sẽ phản ứng và vượt qua những thử thách mới như thế nào?
VÍ DỤKHUNG:
- Đối thủ cạnh tranh chính
- Đối thủ cạnh tranh thứ cấp, tiềm năng
- Cơ hội
- Rủi ro
Ngay cả khi bạn không bao giờ có kế hoạch tìm kiếm tài chính hoặc thu hút các nhà đầu tư, bạn cũng phải biết rõ sự cạnh tranh của mình. Phân tích cạnh tranh giúp bạn trả lời câu hỏi "Chống lại ai?"
PHẦN 7: HOẠT ĐỘNG
Bước tiếp theo trong việc tạo kế hoạch kinh doanh của bạn là phát triển một Kế hoạch hoạt động sẽ phục vụ khách hàng của bạn, giữ cho chi phí hoạt động phù hợp và đảm bảo lợi nhuận. Kế hoạch hoạt động của bạn phải trình bày chi tiết các chiến lược quản lý, nhân sự, sản xuất, thực hiện, hàng tồn kho – tất cả những thứ liên quan đến việc vận hành doanh nghiệp của bạn hàng ngày.
Mục tiêu là trả lời các câu hỏi chính sau:
- Bạn cần những phương tiện, thiết bị và vật dụng nào?
- Cơ cấu tổ chức của bạn là gì? Ai chịu trách nhiệm về những khía cạnh nào của doanh nghiệp?
- Nghiên cứu và phát triển có được yêu cầu trong quá trình khởi động hay hoạt động liên tục không? Nếu có, bạn sẽ hoàn thành nhiệm vụ này như thế nào?
- Nhu cầu nhân sự ban đầu của bạn là gì? Bạn sẽ bổ sung nhân viên khi nào và như thế nào?
- Bạn sẽ thiết lập mối quan hệ kinh doanh với các nhà cung cấp và đối tác như thế nào? Những mối quan hệ đó sẽ ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động hàng ngày của bạn?
- Hoạt động của bạn sẽ thay đổi như thế nào khi công ty phát triển? Bạn sẽ thực hiện những bước nào để cắt giảm chi phí nếu ban đầu công ty không hoạt động như mong đợi?
Các gợi ý cho phần này, không phải tất cả đều được thể hiện trong kế hoạch kinh doanh, nhưng nó là các dữ liệu bạn cần phân tích, đánh giá.
1. Quản lý vị trí và cơ sở ban đầu
- Yêu cầu phân vùng
- Loại tòa nhà bạn cần
- Không gian bạn cần
- Yêu cầu về nguồn điện và tiện ích
- Tiếp cận: Khách hàng, nhà cung cấp, vận chuyển, v.v.
- Đậu xe
- Xây dựng chuyên dụng hoặc cải tạo
- Sửa chữa nội ngoại thất, sửa chữa khác.
2. Các hoạt động hàng ngày
- Phương pháp sản xuất
- Phương thức dịch vụ
- Kiểm soát tồn kho
- Bán hàng và dịch vụ khách hàng
- Nhận và giao hàng
- Bảo trì thiết bị, nhập kho.
3. Pháp lý
- Giấy phép và các điền kiện, hay tiêu chuẩn cần có
- Các quy định về môi trường, sức khỏe hay quy định khác theo ngành
- Bảo hộ thương hiệu
- Bảo hiểm
4. Yêu cầu về nhân sự
- Nhân sự đặc thù
- Phân tích các kỹ năng cần thiết
- Tuyển dụng và giữ chân
- Đào tạo
- Chính sách và thủ tục
- Cơ chế, chế độ
5. Hàng tồn kho
- Mức tồn kho dự kiến
- Sự biến động theo mùa bán về nhu cầu
6. Các nhà cung cấp
- Các nhà cung cấp chính
- Các nhà cung cấp dự phòng
- Chính sách thanh toán và công nợ
PHẦN 8: NHÓM QUẢN LÝ
Nhiều nhà đầu tư cảm thấy yên tâm và quyết định nhanh hơn nếu họ cảm nhận được chất lượng và kinh nghiệm của đội ngũ quản lý. Vì đây cũng là 1 yếu tố quan trọng để đánh giá tiềm năng phát triển của 1 doanh nghiệp mới.
Tại sao nên có phần này trong kế hoạch kinh doanh, ngay cả khi bạn không có dự định gọi vốn? Vì nó sẽ giúp bạn đánh giá các kỹ năng, kinh nghiệm và nguồn lực mà nhóm quản lý mạnh đã có hay sẽ cần bổ sung.
Các câu hỏi chính cần trả lời:
- Những người lãnh đạo chủ chốt là ai? (Nếu người thực tế chưa được xác định, hãy mô tả loại người cần thiết). Kinh nghiệm, nền tảng giáo dục và kỹ năng của họ là gì?
- Các nhà lãnh đạo chủ chốt của bạn có kinh nghiệm trong ngành không? Nếu không, họ mang lại kinh nghiệm gì cho doanh nghiệp mà có thể áp dụng được?
- Mỗi vị trí sẽ thực hiện những nhiệm vụ gì? (Tạo một sơ đồ tổ chức thực tế). Quyền hạn nào được cấp và những trách nhiệm nào được mong đợi ở mỗi vị trí?
- Mức lương nào sẽ được yêu cầu để thu hút các ứng viên có năng lực cho từng vị trí? Cơ cấu lương cho công ty, theo vị trí như thế nào?
Một lưu ý nếu bạn gọi vốn: Đừng cố thêm tên KOL vào đội ngũ quản lý với hy vọng thu hút đầu tư. Vì nhà đầu tư quan tâm nhiều hơn người đó có vai trò thực tế gì trong việc điều hành doanh nghiệp – và trong hầu hết các trường hợp thì những cá nhân đó khôngđóng vai trò nào có ý nghĩa thực tế, những nhà đầu tư họ sẽ dễ phát hiện và phản biện điều này.
PHẦN 9: PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
Các dự báo và ước tính tài chính giúp các doanh nhân, nhà đầu tư hoặc người cho vay đánh giá một cách khách quan về tiềm năng thành công của công ty. Nếu một doanh nghiệp tìm kiếm nguồn vốn bên ngoài, việc cung cấp các báo cáo và phân tích tài chính toàn diện là rất quan trọng.
Đa số các kế hoạch kinh doanh bao gồm ít nhất các báo cáo cơ bản sau:
- Bảng cân đối kế toán: Mô tả tình trạng tiền mặt của công ty bao gồm tài sản, nợ phải trả, cổ đông và thu nhập được giữ lại đầu tư cho các hoạt động trong tương lai, hoặc để đầu tư cho việc mở rộng và tăng trưởng. Nó chỉ ra sức khỏe tài chính của một doanh nghiệp.
- Báo cáo thu nhập: Còn được gọi là báo cáo lãi lỗ, báo cáo này liệt kê doanh thu và chi phí dự kiến. Nó cho thấy liệu một công ty sẽ có lãi trong một khoảng thời gian nhất định hay không.
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: Dự báo các khoản thu và chi tiền mặt. Nó cho thấy tiền mặt sẽ chảy qua doanh nghiệp như thế nào và khi nào; không có tiền mặt thì không thể thực hiện thanh toán (kể cả tiền lương).
- Ngân sách hoạt động: Bảng phân tích chi tiết về thu nhập và chi phí; cung cấp hướng dẫn về cách công ty sẽ hoạt động theo quan điểm gia tăng lợi nhuận.
- Phân tích hòa vốn: Dự báo doanh thu cần thiết để trang trải tất cả các chi phí cố định và biến đổi. Cho biết khi nào, trong những điều kiện cụ thể, một doanh nghiệp có thể mong đợi có lãi.
Nếu bạn đã có 1 kế toán, nên làm việc với họ để ra các dự báo và tài liệu tài chính cần thiết.
PHỤ LỤC
Một số kế hoạch kinh doanh sẽ bao gồm thông tin ít quan trọng hơn nhưng có khả năng cần thiết trong phần Phụ lục.
Bạn có thể quyết định bao gồm, dưới dạng thông tin dự phòng hoặc bổ sung:
- Lý lịch của các lãnh đạo chủ chốt;
- Mô tả bổ sung về sản phẩm và dịch vụ;
- Thỏa thuận pháp lý;
- Sơ đồ tổ chức;
- Ví dụ về tài sản thế chấp tiếp thị và quảng cáo;
- Ảnh chụp các cơ sở, sản phẩm tiềm năng...;
- Sao lưu để nghiên cứu thị trường hoặc phân tích cạnh tranh;
- Các tài liệu hoặc dự báo tài chính bổ sung.
Việc tạo Phụ lục thường chỉ cần thiết nếu bạn đang tìm kiếm tài chính hoặc hy vọng thu hút được đối tác hoặc nhà đầu tư.
ĐỪNG BAO GIỜ QUÊN RẰNG MỤC TIÊU CỦA KẾ HOẠCH KINH DOANH LÀ THUYẾT PHỤC BẠN RẰNG Ý TƯỞNG CỦA BẠN CÓ Ý NGHĨA.
BỞI VÌ THỜI GIAN CỦA BẠN, TIỀN BẠC CỦA BẠN, TÌNH YÊU, SỰ NGHIÊP VÀ MỌI NỖ LỰC CỦA BẠN ĐỀU ĐANG NẰM Ở ĐÂY!

Monday, March 29, 2021

Thương hiệu ba phải

COI CHỪNG THƯƠNG HIỆU BA PHẢI!

Nếu một người ba phải có ít bạn chí cốt đồng hành, thì một thương hiệu ba phải cũng có ít khách hàng trung thành với nó.

Người ba phải không có lập trường, không rõ quan điểm, nay thế này, mai thế khác, cứ "cuốn theo chiều gió" liên tục. Họ có thể bán đứng cả bạn bè, đồng đội vì cái tính ba phải của mình!

Một thương hiệu ba phải không có bản sắc, không thể hiện lợi ích cốt lõi (core benefits), không định vị rõ ràng, nhất quán, không cho thấy rõ nét nó là ai, nó đem lại giá trị gì cho khách hàng, vì sao khách hàng phải tin vào nó và trung thành với nó. Một thương hiệu ba phải cũng có thể phản bội lại khách hàng trung thành của mình như một người ba phải khi nó "cuốn theo chiều gió", chạy theo lợi ích ngắn hạn mà đánh mất bản sắc vốn có của mình - thứ bản sắc đã tạo ra lòng trung thành cho những khách hàng yêu mến nó.

Có rất nhiều những thương hiệu ba phải, "nhảy nhót lung tung", truyền thông rối rắm, thay đổi liên tục lợi ích cốt lõi (dành cho khách hàng). Chẳng ai hiểu nó rốt cục là gì, khác biệt chỗ nào, vượt trội ở đâu, lý do nào để mua và trung thành với nó. 

Bạn thử suy gẫm về bài viết và tự đánh giá xem thương hiệu sản phảm và cả thương hiệu cá nhân của mình có phải là một thương hiệu ba phải không nhé! Nếu có, hoặc có hơi hướng ba phải, bạn sẽ làm gì để thay đổi?

Thương hiệu ba phải rất khó có thể trở thành thương hiệu mạnh! Bạn có nghĩ vậy không?

(Share tự do!)

Doanh nghiệp siêu nhỏ làm j?

Doanh Nghiệp Siêu Nhỏ nên làm gì trước?
{ Chuỗi bài quản trị doanh nghiệp }
--------
Với 1 doanh nghiệp mới thành lập, dưới 1 năm đầu tiên, hầu hết anh em đều khuyên rằng nên tập trung lo bán hàng đi, để sống - tồn tại. Lời khuyên này không hề sai, nó có giá trị rất rõ ràng là giúp doanh nghiệp sống, vì bán hàng mới có tiền về khi tiền doanh nghiệp khởi sự thường rất ít.

Nhưng Hùng thì nghĩ khác 1 chút.
Trước khi mở cả công ty, tại sao không hoạch định trước.
Để khi công ty ra đời, có đi bán hàng, thì cũng là bán hàng có hiệu quả, vận hành thì mở rộng được sau này, không chột giựt nhảy lung tung, đụng gì cũng làm như con buôn.

Hùng cho rằng, trước khi mở công ty, hay thậm chỉ đã có công ty rồi thì hãy dành vài ngày, ngồi suy nghĩ 1 cách nghiêm túc về định hướng dài lâu cho nó, ở 3 khía cạnh sau đây:

1. Phạm Vi mà Doanh Nghiệp Mình Hoạt Động?
2. Sứ Mệnh - Tầm Nhìn - Hệ Giá Trị cho nó?
3. Mục Tiêu Cốt Lõi?

Với Mục Số 1 - PHẠM VI  

Hùng tôi có dịp tiếp xúc nhiều bạn trẻ khởi nghiệp, khi được hỏi em kinh doanh cái gì, hầu hết đều là những câu trả lời còn rất chung chung như: 

- Em kinh doanh giáo dục.
- Em kinh doanh Spa.
- Em kinh doanh phân phối.
- Em kinh doanh Cafe. 

Nhưng khi tôi tiếp xúc 1 ông lớn, thì cũng câu hỏi như trên tôi nhận được như sau: anh kinh doanh phân phối thủy hải sản cho các hệ thống nhà hàng và quán cafe tại TP.HCM theo hình thức họ bao tiêu sản lượng lớn định kỳ. 1 câu trả lời rất rõ ràng, nếu tôi là nhân viên của anh, chưa cần vào công ty, tôi có thể mườn tượng sơ ra công ty anh hoạt động như thế nào, khả năng cao anh phải có đội ngũ tài xế và xe tải để vận chuyển thủy hải sản cho các nhà hàng. 

Nhiều bạn trẻ sau này gặp khó khăn khi xây dựng cơ cấu tổ chức công ty và vận hành sao cho hợp lý hiệu quả bắt nguồn từ 1 chữ ban đầu: THAM. 

Hãy trả lời những câu hỏi sau cho công ty: 
- Công ty tập trung vào lĩnh vực gì?
- Công ty tập trung vào nhóm ngành gì?
- Công ty tập trung vào SP- DV gì?
- Công ty tập trung phục vụ ai?
- Công ty tập trung vào giá trị gì?
- Công ty tập trung vào mô hình nào?
- Công ty tập trung vào khu vực nào?

Bạn sẽ có 1 công ty khởi sự tinh gọn, hiệu quả và rất dễ để xây dựng cơ cấu tổ chức hợp lý, vận hành hiệu quả. 

Hãy thử làm lại với ví dụ trên:
Thay vì nói, em sẽ mở 1 công ty giảng dạy tiếng anh, quá chung chung. Viết lại theo khung trên như sau

- 1 công ty làm về giáo dục tiếng anh.
- 1 công ty tập trung vào dạy tiếng anh giao tiếp.
- 1 công ty tập trung vào SP giao tiếp cho người mất gốc.
- 1 công ty tập trung phục vụ người đi làm, thu nhập cao.
- 1 công ty tập trung vào giá trị "Phản Xạ - Nói Được Ở Lớp".
- 1 công ty tập trung vào mô hình đào tạo nhóm nhỏ (1 kèm 3).
- 1 công ty tập trung ở khu vực trung tâm tại TP.HCM

Việc này bạn sẽ thấy rất giá trị với đội ngũ nhân sự của bạn, họ sẽ dễ làm việc hơn rất nhiều, từ tư vấn, marketing, đến cả vận hành. Bạn sẽ nhanh chóng định hình được cách thức tổ chức giảng dạy thay vì loay hoay, lúc lớp đông, lúc lớp ít, lúc dạy online,... loạn cả lên, việc tổ chức các phòng ban để doanh nghiệp tự chạy sẽ cực kỳ khó với 1 doanh nghiệp hỗn loạn phục vụ đa khách hàng với nhiều mô hình như vậy. Việc hỗn loạn kéo dài quá lâu sẽ khiến tổ chức bạn khó tạo dấu ấn ghi nhớ trong tâm trí khách hàng, kết quả bạn không cạnh tranh, lại nhảy qua làm cái khác như giảng dạy anh văn về luyện thi rồi cứ thế, hết này qua khác như 1 con buôn, không tồn tại lâu bền, không có chỗ đứng. Hãy tập trung. 

Rõ ràng, rất nhiều người cho bán hàng là quan trọng 1 khi khởi nghiệp, nhưng hùng không thấy ai suy nghĩ làm sao bán hàng hiệu quả nhất. Đó là phải trả lời bán gì, bán cho ai, bán ở đâu, bán giá nào, giá trị nào sẽ chuyển giao, chuyển giao như thế nào, làm thế nào để cạnh tranh, làm thế nào để chiến thắng…?   

BẠN THẤY ĐẤY, RÕ RÀNG LÀ SỨC MẠNH. 

Với Mục Số 2 - SỨ MỆNH - TẦM NHÌN - HỆ GIÁ TRỊ 

Ước mơ, hoài bão của mình là gì, chỉ là một xe bánh mì kiếm cơm qua ngày ở khu vực Cầu Ông Lãnh, hay thành chuỗi quán bánh mì bán khắp thành phố, hay một tập đoàn thức ăn nhanh vươn ra toàn cầu? Rõ ràng, với mỗi ước mơ, chúng ta sẽ có cách thức marketing, kênh bán hàng, xây dựng đội ngũ, tổ chức các công việc phải làm cũng khác nhau hoàn toàn. Nên việc xác định rõ ràng MÌNH MUỐN GÌ qua sứ mệnh, tầm nhìn, hệ giá trị cũng quan trọng hơn bao giờ hết.  

Không có cái này, bạn dể dính vô bẫy mở rộng, thấy gì cũng ham, gì cũng muốn làm, và ức nghĩ đó là hệ sinh thái.

Bạn mong muốn mở ra 1 xưởng sản xuất gỗ, để phục vụ ra các sản phẩm nội thất gỗ cho các văn phòng doanh nghiệp. Vậy ý nghĩa của việc công ty bạn khai sinh để giúp gì chúng tôi, các doanh nghiệp mua bàn ghế của bạn về? 

Và ta thấy rằng, nếu xưởng đó nói xưởng hộ giúp doanh nghiệp có nội thất đẹp, tinh xảo, bền thì cách thức xưởng đó tổ chức sản phẩm sẽ khác. Còn nếu họ nói xưởng họ hướng đến giúp tiết kiệm không gian vì sản phẩm họ lắp ráp dễ dàng, bàn không ngồi xếp lại được thì rõ ràng cách thức tổ chức làm SP và cả dây chuyền nó lại khác.  

Tức ngày nào bạn không có sứ mệnh rõ ràng, công ty bạn sẽ rất mông lung trong việc tạo ra cấu trúc SP - DV rõ ràng, mà cái này không có thì lấy gì tổ chức hoạt động bán hàng hiệu quả, hoạt động sản xuất hiệu quả? Rõ ràng là nếu làm hàng tinh xảo, thủ công như nghệ nhân (như mấy dòng SP keo Expoxy) nó khác với làm các SP điêu khắc công nghiệp bằng máy CNC. 2 nhà xưởng bạn có dịp đi thử sẽ thấy, khác nhau hoàn toàn từ máy móc, cơ chế quản lý đến yêu cầu năng lực thợ. 

Khi có sứ mệnh rõ, bạn mới hy vọng phác thảo được viễn cảnh tương lai trong ngắn hạn cho mình. Nếu bạn nói em muốn mở 1 xưởng gỗ, thực sự bạn rất khó hình dung xưởng nó chạy như thế nào, nhưng nếu bạn nói em muốn mở 1 xưởng gỗ làm SP độc đáo trưng bày cho các căn hộ villa, biệt thự, dòng SP là dạng gỗ kết hợp keo exposy, mỗi SP là độc nhất không có cái thứ 2... thì ít nhiều bạn mườn tượng, bạn đi bán hàng cho ai? bạn tổ chức xưởng như thế nào, đi mua vật tư ở đâu rồi đó. 

Thế nên, đừng nói em không biết làm gì khi dự định mở.

Cuối cùng, để cả 1 tập thể và chính bạn làm nổi cái sứ mệnh kia, đi được đến tầm nhìn viễn cảnh bạn muốn, đội ngũ bạn cần tố chất gì ở đây, đó là hệ giá trị mà bạn theo đuổi. 

Nói dễ hiểu hơn, là ngay cả việc xây dựng 1 cái group như Group FB đi, nếu bạn đề ra sứ mệnh Group là giúp Thế Hệ Doanh Nhân Việt Nam có kiến thức quản trị tốt hơn, đó chỉ mới dừng ở chém gió thôi (dù là sứ mệnh ủa bạn). Mấu chốt, bạn sẽ làm gì trong 1 năm tới cho việc đó. 

Lúc này, bạn nói: tôi sẽ làm 10 hội thảo lớn về quản trị trong 2021 cho group, thì đó là tầm nhìn. 

Vậy group bạn xây phải có những điều gì thì group mới xứng đáng là nơi giúp các doanh chủ nâng tầm doanh trí như sứ mệnh nêu, thu hút họ tham gia? Ví dụ:
- Chia sẻ (group liên tục có bài hay).
- Kết Nối (group có nhiều event hay).
.... 

Rõ ràng nếu BQT 1 group nào đó mà làm tốt những điều trên thì tầm nhìn kia sớm đạt được, và sứ mệnh sẽ khẳng định được trong lòng member group đó, toàn các doanh chủ các công ty.

Bạn thấy đấy, ranh giới giữa người khởi nghiệp muốn với có đạt được hay không, nó xa vời vợi. Và Hệ Giá Trị chính là cái mà chính bàn và cả ekip cùng nhau nỗ lực bám sát vào những tố chất đó thì mới đi đến đích được.

Nếu Sứ Mệnh là để theo đuổi trong lâu dài, Tầm Nhìn là để vươn tới, còn Hệ Giá Trị là nền móng, là kim chỉ nam, là phương châm cho mọi hoạt động và cách hành xử của DN (với ví dụ trên là cách hành xử của 1 group trên facebook).

Với Mục Số 3 - MỤC TIÊU CỐT LÕI

Vậy 1 doanh nghiệp, cần phải làm những gì để thực hiện sứ mệnh, phải học tập những gì, làm gì để thực hiện đúng hệ giá trị cốt lõi, phải xây dựng những gì về nguồn lực gồm: năng lực nhân viên, cơ sở hạ tầng theo thời gian, quy trình,... để đi đến tầm nhìn đã vạch ra. Đó là mục tiêu cốt lõi ban đầu của doanh nghiệp. 

Rất nhiều bạn ra khởi nghiệp mở 1 công ty cung cấp ứng dụng phần mềm quản lý và nói tầm nhìn em là sẽ tạo ra các app, mỗi app phục vụ 1 khía cạnh quản lý trong doanh nghiệp và em sẽ có tất cả các ứng dụng này. Nhưng khi mình hỏi, bao lâu thì em có hết các apps, lộ trình build, năm thứ 1 ra apps gì, năm 2 thì cứng họng. Hầu hết, anh em chém gió tầm nhìn đao to búa lớn ghê lắm. 

SƠ NHẤT LÀ NHỮNG CÂU TẦM NHÌN
TÔI SẼ LÀ SỐ 1 TRONG LĨNH VỰC A/B/C GÌ ĐẤY. 

Việc hoạch định rõ mục tiêu cốt lõi còn giúp bạn biết được đâu là Bộ Phận Chủ Chốt quan trọng với mô hình công ty của bạn, đâu là vị trí rất quan trọng quyết định thành bại với công ty của bạn đấy. 

Nếu bạn muốn, tôi muốn mở 1 chuỗi cửa hàng bánh mì thịt với món chả lụa gia truyền độc đáo thì bạn sẽ thấy bí mật công thức làm chả là vô cùng quan trọng với bạn và việc làm sao bảo mật nó là sống còn của bạn trong quy trình vận hành và kiểm soát nội bộ. 

Nhưng nếu bạn muốn mở 1 chuỗi cửa hàng bánh mì thịt với sứ mệnh giúp mỗi người có bữa ăn sáng NHANH hơn thì chuyện chả lụa lấy ờ đâu cũng được, chả quan trọng, miễn không quá tệ là được. 

CUỐI CÙNG, ĐIỀU MÌNH MUỐN NÓI
NGAY CẢ NGƯỜI ĐI BÁN DẠO VỈA HÈ, HỌ CŨNG TOAN TÍNH, HỌ CŨNG CÓ CHIÊU RIÊNG, CHỨ KHÔNG PHẢI THÍCH THÌ DỪNG XE Ở ĐÂU BÁN CŨNG ĐƯỢC, Ế CHỎNG VÓ NGAY.

HUỐNG HỒ, TA MỞ CẢ 1 DOANH NGHIỆP VỚI 1 ĐỘI NGŨ NHÂN VIÊN, NẾU BẠN KHÔNG CÓ ĐỊNH HƯỚNG RÕ RÀNG. NGAY CHÍNH BẠN ĐI BÁN HÀNG CÒN KHÓ, ĐỪNG NÓI NHÂN VIÊN.

Chúc anh chị em thành công nhé.

- Nguyễn Tuấn Hùng - 

Nhà sáng lập Next Việt Nam.

Nhà sáng lập M-factory.

Nhà sáng lập P-trading.

Sunday, March 28, 2021

BẠN GIÀ NHANH ĐẾN MỨC NÀO.

BẠN GIÀ NHANH ĐẾN MỨC NÀO.
Nếu bạn đang mong chờ một bài viết khoa học về các vấn đề sinh hóa phức tạp liên quan đến tuổi già, những chất dẫn truyền thần kinh loapoa lumpo mambo jumbo tác động tới tâm lý của người lớn tuổi như nào, hoặc tò mò về các biến đổi thể chất của cơ thể đối với tuổi tác, thì bài viết này không dành cho bạn.
Đây không phải là bài viết khoa học về tuổi già, đây chỉ là một bài viết về sự hoang mang của một người thuộc thế hệ đầu 8x bắt đầu cảm nhận được sự đáng sợ của tuổi tác. Những cảm giác mà, sớm thôi, các bạn có thể sẽ phải trải qua.
Trước tiên, cũng cần phải nhấn mạnh, đây chỉ là cảm nhận của riêng người viết, không đại diện cho bất cứ nhóm người nào, ở độ tuổi nào. Bài viết dành cho thế hệ 9x, 2k, nếu bạn không nằm trong số đó, có thể đọc cho vui.
1. Đầu tiên, tin buồn đây: bạn sẽ già nhanh hơn mình tưởng.
Không cần biết hiện nay bạn bao nhiêu tuổi khi đọc bài viết này. 15 tuổi, 18 tuổi, hay 20, 25? Tất cả đều không quan trọng, khoảng cách giữa tuổi già với một cậu nhóc 15 tuổi hay anh thanh niên 25 tuổi gần như bằng nhau.
Có những khoảnh khắc, trong lúc đang mải mê suy nghĩ, rằng "mình đang ngồi trong lớp học, mới tiết đầu tiên, không biết bao giờ mới hết giờ, được chạy về nhà, phi lên máy tính làm một trận game, hay xem tập tiếp theo của bộ phim yêu thích đây nhỉ…". Và dường như chỉ một cái chớp mắt sau đoạn "nhỉ", thời gian bỗng biến mất, gần như không tồn tại, rồi bạn thấy mình đang lướt mắt để đọc bài viết tối chủ nhật này đây, mà thường quên bẵng những lúc "tự vấn" kia và quên cả đoạn nằm ở giữa nó với thời điểm này. Cái chớp mắt đó có thể là 1 tuần đối với một số người, 1 tháng đối với một số người khác, là 3 năm kể từ khi đọc bài viết đầu tiên của Monster Box. Hoặc thậm chí, là nửa đời người. Nhưng có một điều mà ít người nhận ra về những khoảng thời gian đã trải qua, đó là một ngày, một tháng, một năm hay cả đời người đều không quan trọng. Chúng bằng nhau, và đều gói gọn thành một thứ cảm giác tiếc nuối bồi hồi khó tả.
Bạn sẽ nhận ra bạn già đi trong những khoảnh khắc bất chợt, và rồi cảm giác của bản thân về mọi thứ trước đó và sau đó đều biến đổi sâu sắc. Chúng ta thường không giỏi phát hiện những thay đổi nhỏ nhặt trong cuộc sống thường ngày, nhưng lại cực kì hoang mang trước những thay đổi lớn không mong muốn. Những khoảnh khắc nhận ra mình già đi sẽ đến bất kì lúc nào, chứ không nằm ở những mốc 25 tuổi, 30 tuổi như những cách phân loại khô khan thường bắt gặp trên các "trang tin sức khỏe" vô bổ. Những khoảnh khắc hoang mang và bất lực và buồn bã và vô vọng và cảm thấy sự bế tắc tột độ đấy, đến thường xuyên, chứ không phải chỉ một hoặc hai lần trong cuộc đời.
Với tôi, một trong những lần đấy là khi đang đá bóng với mọi người trong Monster Box. Một quả bóng được chuyền bởi đồng đội từ bên cánh phải, dọc đường biên.
Lúc đấy, bộ não trong đầu tôi hét to:
"Nào, cơ hội đấy, hãy chạy bứt lên, đón gọn quả bóng trong chân, tung người lên dưới ánh đèn pha và bồi một cú sút xoáy nức lòng người hâm mộ vào góc trên bên phải khung thành, sau đó giả bộ làm mặt lạnh lùng ngầu lòi quay đi và bước từ từ trong tiếng hô vang của đồng đội."
Nghe bộ não nói điều đó, tấm thân ì ạch cùng hai cái chân rệu rã vì vừa chạy được một nửa cái sân bóng mini lập tức đồng thanh đáp lại:
"Ai cơ, chúng tôi hả, bớt giỡn nào…"
Hoặc, một lần khác, tôi giật mình nhận ra "mấy cái thằng 9x" có đứa đã hơn 30 tuổi, và "lũ hai nghìn" cũng đã bắt đầu xếp hàng lũ lượt đi qua mốc 20.
Hoặc đơn giản, đó chỉ là khoảnh khắc bạn đứng dậy và thấy đau lưng kinh khủng; hay sự cẩn trọng trước mỗi khi có ý thức khuya vì bạn biết rõ ngày mai cơ thể mình sẽ bệ rạc đến nhường nào.
Hoặc với Ali Wong, nữ danh hài độc thoại người Châu Á, bà nhận ra mình già khi đang đi trên đường, bắt gặp một cô gái trẻ và trong đầu bà vang lên 2 chữ "F*ck you".
2. Tin buồn hơn: bạn sẽ bị đẩy ra rìa của các cuộc vui còn nhanh hơn nữa
Khi phải trải qua những cảm giác trong phần trên của bài viết, thì hãy chuẩn bị sẵn sàng cho điều tồi tệ xảy ra tiếp theo: bữa tiệc nướng kẹo dẻo cuối tuần, sẽ vui hơn, khi không có mặt bạn.
Một trong những hiểu lầm phổ biến với đại chúng, đó là thế hệ bước qua trung niên không hiểu được sở thích, niềm vui và xu hướng của giới trẻ, cho nên họ không thể hòa nhập được.
Sai, sai nặng. Chúng tôi hiểu đấy. Thế hệ chúng tôi cũng có người thích đánh Dota, Liên Minh, cũng có người thích nghe rap gangz, rap dizz, vẫn có người dạo TikTok cả ngày, vẫn có người thích Sơn Tùng MTP, Đen Vâu, Min, Amee, Binz... thậm chí là MC ILL, Richchoi. chúng tôi vẫn rành công nghệ. Đương nhiên không phải ai cũng có những sở thích như nhau, cũng như giới trẻ các bạn đâu phải ai cũng thích teen code và dảk dảk bủh bủh. Nhưng nhìn chung, chúng ta giống nhau hơn bạn tưởng.
Thậm chí, nếu bạn chưa biết, những sản phẩm mà các bạn yêu thích nhất, đa số vẫn đang được tạo ra và quản lý bởi những người ở thế hệ của chúng tôi hoặc thế hệ trước đó nữa. Ví dụ ư? quá nhiều: Youtube, Facebook, Instagram, Tiktok, Tinder, Netflix, game, anime manga, đấu trường Rap Việt, King Of Rap, truyền hình thực tế… thừa nhận đi nào, Z-Gen chưa đủ số năm sống ở đời để có được nhiều thành tựu lớn lao. Yên tâm đi, rồi sẽ tới lúc thôi, nhưng không phải hôm nay.
Vậy vấn đề ở đâu? Điều mỉa mai là, chính những định kiến về người già của người trẻ, mới là thứ khiến người già khổ sở.
"Mấy cái thằng 9x" và "lũ hai nghìn" trong Monster Box dù tiếp xúc với tôi đã mấy năm nay, nhưng lâu lâu vẫn có kiểu hỏi như "trời, anh từng này tuổi rồi mà còn nghe nhạc này nữa hả" (editor's note: đệt anh Liêm bịa chuyện bêu xấu anh em 🙁 ). Thậm chí, tệ hơn, đôi khi câu hỏi còn nhắm vào sản phẩm gắn liền với thời của tôi nữa (tôi là 8x), như One Piece, Doraemon. Chắc là với bọn nó, từ 9x trở về sau là một nhóm, còn cứ hễ bạn sinh trước năm 90, thì bạn là một nhóm hoàn toàn khác. Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu vài đứa trong bọn nó xếp tôi chung nhóm với thế hệ cha mẹ, ông bà của họ. Trong mắt bọn nó chắc tôi là mẫu "hút thuốc lào, nghe nhạc vàng và hát bolero". Đừng hiểu nhầm, tôi cũng thích bolero đấy, nhưng cũng thích nhạc trẻ nữa, tôi vẫn có thể vừa Nhớ Người Yêu cùng Đan Nguyên, vừa có thể Chạy Ngay Đi với Sơn Tùng. Mà chẳng phải thế hệ trẻ cũng rất nhiều người cũng thích bolero sao. Tôi đã nói rồi, chúng ta giống nhau hơn bạn tưởng.
Điều tồi tệ ở đây là những định kiến đó sẽ không giới hạn ở các sở thích cá nhân như nhạc Sơn Tùng, hay Doraemon. Định kiến đó còn đi sâu vào các hoạt động tập thể khác, như chơi game hay thể thao, cách đối thoại trong cuộc sống, vân vân mây mây. Cách giới trẻ giao tiếp với bọn tôi, trong vô thức, ảnh hưởng nặng nề bởi định kiến "người già", dù họ có thừa nhận hay không.
"Giờ máy game hiện đại quá nhỉ, ra đến Playstation 5, giờ có mấy cái này mà chơi, sướng thật, hồi xưa khi buồn chẳng có gì chơi, chỉ biết cầm đàn guitar hát để giết thời gian" -  2 tuần trước, trước ngày sinh nhật, tối có "ẩn ý" với đám trong công ty như thế. Thế là đến sinh nhật tôi bọn nó tặng tôi cái đàn guitar - cái mà tôi đ* biết chơi, thay vì cái Playstation 5, mặc dù hai cái đó giá tiền ngang ngang nhau vì bọn nó mua cái đàn cũng xịn. Đáng nhẽ lúc ẩn ý tôi nên nói "ông bà mình ngày xưa chỉ biết cầm cái Playstation 5 tung hứng để giết thời gian"...
3. Chúng tôi đã từng trẻ, còn các bạn chưa bao giờ già.
Có một số nhận định của các bạn trẻ cũng khá chính xác về thế hệ chúng tôi, một trong số đó là hay nói nhiều, hay đúng nguyên văn của các bạn là thích giảng đạo. Càng lớn tuổi càng hay giảng đạo, mà cũng chẳng cần biết người kia có nghe hay không, không phải tất cả nhưng hầu hết là như thế.
Có đôi lúc tôi tự hỏi, từ khi nào tôi lại trở thành người tôi đã từng ghét. Ngày xưa tôi hay gọi những người như mô tả bên trên là người hay lải nhải.
Giả thiết đầu tiên của tôi cho hiện tượng này, có thể chúng tôi nói nhiều hơn, vì chúng tôi "đã thấy" nhiều hơn. Chúng tôi từng thấy nhiều điều tồi tệ xảy ra với giới trẻ, thứ mà chúng tôi đã trải qua rồi. Nếu bạn đã xếp thế hệ già hơn vào chung một nhóm riêng biệt, vậy điều gì khiến bạn nghĩ rằng bạn sẽ không giống chúng tôi khi bạn già đi. Và nếu chính bản thân bạn nghĩ bạn cũng sẽ như vậy, thì điều gì khiến bạn nghĩ những lời nói của chúng tôi sẽ sai. Nói cách khác, nếu bạn nghĩ bạn trong tương lai (một phiên bản thông thái hơn bạn hiện nay) cũng sẽ y như chúng tôi hiện giờ, bạn có tin chính bản thân mình không. Nếu bạn làm những gì thế hệ trước từng làm, thì bạn sẽ nhận được chính xác những gì họ từng nhận. Đương nhiên là sẽ có trường hợp ngoại lệ. Nhưng sự ngoại lệ gây nguy hiểm ở chỗ hầu hết chúng ta đều nghĩ rằng mình ngoại lệ.
Hoặc giả thiết thứ hai, cũng là giả thiết mà tôi tin, thế hệ già luôn muốn chia sẻ kinh nghiệm cho thế hệ trẻ vì họ vẫn còn tiếc nuối về thời còn trẻ của bản thân họ. Qua câu chuyện được chia sẻ, họ sẽ kể về những trải nghiệm bản thân, và qua đó giả lập một thế giới nơi họ được trẻ lại nhưng vẫn sống trong tình trạng hiện tại, điều mà họ không bao giờ có, vì họ chỉ sống được thời trẻ ở một xã hội khác - trong quá khứ. Vì thế mà chúng ta rất hay nghe người già nói câu "hồi tao bằng tuổi tụi bây tao làm gì có cái nọ cái kia…". Nói cách khác, khi một người già nói "hồi trước tao chỉ có cái guitar chứ làm gì có Playstation 5 như bây giờ", có nghĩa là họ muốn cái Playstation 5 chứ không phải cái cây đàn guitar, TRỜI Ạ.
(Editor's note: Sao anh nghĩ bọn em không biết? Đâu ai lại vô tình mua cây guitar giá gần bằng PS5 :').
Giả thiết thứ 2 ở trên, dẫn đến một điều đáng sợ khác, ít nhất là với riêng tôi, chúng tôi sợ sẽ không còn thời gian được trải nghiệm những thứ hay ho trong tương lai nữa. Vì chúng ta đều biết những thứ giải trí hay ho nhất hiện nay ra đời đều nhắm đối tượng phục vụ là người trẻ. Người trẻ có thể chọn lựa chơi đá bóng, hoặc chơi game, hoặc chơi game đá bóng. Mặc dù chọn lựa của họ là gì thì thế giới của họ cũng khó mà phù hợp để người già có thể tham gia. Người trẻ có thể chọn ngồi đánh cờ với người già, nhưng người già không thể đi trượt patin với người trẻ được. Không phải là vấn đề về sĩ diện hay sở thích, mà chủ yếu vì sức khỏe và cấu tạo cơ thể của người già. "Ước gì mình sống đủ lâu để trải nghiệm công nghệ thực tế ảo như trong phim Black Mirror" - đã hơn 10 lần tôi tự trấn an mình như thế.
4. Bạn sẽ không thích mình già đi, đồng thời cũng thích thế.
Bỏ qua những chuyện như sức khỏe đi xuống, ăn không còn ngon, bắt đầu phải sống chung với bệnh tật hay uống thuốc mỗi ngày như uống cafe, vì chúng ta đều có thể nhìn thấy và biết cả rồi, tôi muốn nói đến những thứ hay ho khi chúng ta già đi.
Đầu tiên, những người chúng ta yêu thương cũng sẽ già cùng nhau. Ý tôi là, bạn có tưởng tượng sẽ tệ đến mức nào nếu bạn thì trẻ mãi, còn bạn bè xung quanh, người yêu, vợ hoặc chồng mình thì già đi hàng ngày không. Nếu chuyện đó xảy ra thì tệ cho bạn ấy, không phải cho họ đâu. Những người bạn đã chọn ở cùng vì nhiều lý do, thật tuyệt khi có thể cùng họ đi trên những chuyến tàu từ nơi này đến nơi khác, nhưng tuyệt hơn nữa là có thể cùng họ vượt qua hết mốc thời gian này đến mốc thời gian khác. Nếu cùng sở thích, vẫn sẽ cùng sở thích, nếu có lỗi lầm, họ dễ bỏ qua hơn, và điều tuyệt vời hơn nữa là bạn cũng sẽ rất vui vì thấy mình tử tế với mọi người y như vậy. "Dù mai có ra sao, ta vẫn cứ tự hào, vì đã luôn bên nhau, quy đù é ry thing, đưa tay đây nào, mãi bên nhau bạn nhớ"...
Tiếp đến, bạn sẽ nhận được sự tôn trọng từ giới trẻ, hoặc ít nhất là ngoài mặt họ sẽ như thế. Đây là niềm thú vị nhỏ, nhưng có thể cũng kèm tác hại. Một trong những lý do mà mấy thằng trong Monster Box không rủ tôi chơi chung với nó cái gì hết là vì dù tôi có chơi dở, hay nếu có đánh Yasuo ngu bọn nó cũng không thể chửi tôi như tôi hay vẫn nghe bọn nó chửi nhau. Từng có một bài viết ngày chủ nhật thằng writer đá xéo tôi vì khi đi đá banh tôi chửi bọn nó thì được còn bọn nó thì không. Hoặc một số trường hợp tệ hơn, khi đi ăn uống cùng nhau, bạn sẽ bị nhân viên phục vụ chìa cái bill tính tiền vào mặt trước tiên chỉ vì trông bạn lớn tuổi nhất.
Một trong những điều khá buồn cười là lời nói của bạn sẽ trông đáng tin hơn một chút, chỉ một chút thôi nhé, mặc dù nội dung của nó có thể được nói ra bởi bất cứ lứa tuổi nào. Để làm rõ hiện tượng này, bạn thử tưởng tượng một người lớn tuổi hơn nói một câu đại loại như "hãy cố gắng học hành, đừng chơi bời lêu lổng", sau đó thì cùng câu nói đó nhưng được nói ra bởi đứa em 12 tuổi hay thằng cháu 10 tuổi trong nhà. Hay ngày Tết nhất bạn có quyền chơi bẩn thằng cháu của mình bằng mấy câu hỏi kiểu bao giờ cưới vợ, Tết này dư nhiêu, có việc làm chưa… mà nó không dám làm gì mình hết.
Bạn cũng sẽ kiếm được nhiều tiền hơn với cùng một vị trí công việc với người trẻ nhờ vào số năm kinh nghiệm, cho dù hiệu quả công việc như nhau, thậm chí đôi khi người già làm việc còn kém hiệu quả hơn. Đừng vội phản đối, điều này là thực tế đấy, bởi vì đôi khi "hiệu quả công việc" là một thứ rất khó nắm bắt với đa số các vị trí, nên nhà tuyển dụng sẽ trả lương cao hơn với những người có thâm niên hơn. Bù lại cho việc này, bạn sẽ khó tìm việc hơn khi càng lớn tuổi, vì các HR không thể deal một mức lương trung bình cho một người lớn tuổi, nhưng lại càng không thể trả nhiều hơn cho vị trí đó. Thay vì phải đứng trước tình huống tiến thoái lưỡng nan như vậy, tốt hơn là chọn những người trẻ tuổi. Nguồn cho kết quả nghiên cứu này: tôi nghĩ ra. Haha, tôi đã nói là bài viết này không phải là bài viết có cơ sở khoa học chưa nhỉ.
Bên cạnh đó, ít nhất thì bạn sẽ có thời gian để đọc sách hay những hoạt động một mình khác, vì bọn trẻ sẽ ít rủ bạn đi chơi cùng tụi nó hơn, sự thoải mái này một phần cũng nhờ càng lớn tuổi tâm lý FOMO (sợ bị bỏ rơi) sẽ càng ít tác động đến bạn. Có thể do bạn đã quen "bị bỏ rơi" rồi, có thể lắm chứ, như tôi đã nói ở phía trên ấy, những bữa tiệc nướng kẹo dẻo sẽ vui hơn nếu vắng đi sự xuất hiện của bạn.
Bạn cũng sẽ thấy hạnh phúc với người bạn đời hơn khi bạn lớn tuổi hơn. Đây là một điều khá phản trực giác với hầu hết chúng ta, vì chúng ta thường thấy giới trẻ thể hiện tình yêu cuồng nhiệt hơn người già, nhưng thể hiện ra điều đó không có nghĩa là nó sâu sắc hơn. Nguồn: tui luôn. Mặc dù điều này không biết có đúng với những người khác hay không, nhưng cứ để vào đây phòng trường hợp tí nữa vợ tôi có đọc bài viết này. Hello vợ!
Tuổi già cũng sẽ giúp bạn bớt gánh nặng tâm lý của hiệu ứng của peer pressure (áp lực đồng trang lứa) hơn, vì thế giới quan về xã hội của bạn phần nào đã thay đổi, và vì lúc này bạn có nhiều thứ phải quan tâm hơn là… áp lực đồng trang lứa. Tất nhiên nó không hết hẳn, nhưng đã đỡ rất nhiều. Cũng vì áp lực đồng trang lứa của nhóm trung niên nếu có sẽ rất khủng khiếp, đến mức chẳng ai điên đến mức xem đó là thứ nên chịu áp lực. Vì trái với các bạn trẻ, vốn vẫn tràn đầy nhiệt huyết và niềm tin thuần khiết rằng mình sẽ đổi đời sau khi có tấm bằng đại học, sau khi nhận được vị trí ở tập đoàn lớn nào đó hay sau khi tự khởi nghiệp thành công; những người ở tuổi già, nếu nhìn thấy sự giàu có vượt bậc hay sự viên mãn của những người cùng lứa, chúng tôi hiểu rằng đó là một thứ khá… phức tạp, và sự hình thành của thứ phức tạp ấy vốn đã xảy ra từ rất lâu trước đó. Khi đã ở phía bên kia triền dốc của cuộc đời, người ta sẽ nhận ra rằng việc tận hưởng phần còn lại trong hành trình của mình thì tuyệt hơn là trông qua những ngọn núi khác.
(Editor's note: anh thì tạo áp lực cho người khác chứ ai mà áp lực được anh lul).
5. Nên chuẩn bị gì cho tuổi già
Không gì cả.
Chính vì tâm lý sợ mình sẽ rời khỏi cuộc chơi, và nỗ lực tìm mọi cách để níu kéo và chuẩn bị cho nó, mới làm cho chúng ta không muốn rời bỏ tuổi trẻ. Đồng thời cũng là thứ khiến chúng ta sống trong sự già nua ngay cả khi tuổi già chưa đến. Hãy làm những thứ vẫn đang làm, hãy tiếp tục vui với những trò chơi đang diễn ra. Rồi tự động chúng ta sẽ được bọn trẻ hơn gạt ra khỏi những cuộc vui của bọn nó một cách chậm rãi, đủ chậm để không có cảm giác mất mát quá nhiều.
Nếu bạn đang cố gắng dùng tuổi trẻ của mình để trau dồi kiến thức, làm việc miệt mài chuẩn bị cho tương lai, điều đó tốt cho bạn. Nếu bạn không thế, bạn vẫn còn muốn tận hưởng tuổi trẻ của mình, điều đó vẫn không sao cả. Khác với các lớp dạy làm giàu, hay những quyển self-help, ở đây không có câu trả lời chính xác một người nên làm gì khi còn trẻ. Tôi đã thấy vô số trường hợp những người thành công khi về già nhưng luôn tiếc nuối vì đã không sống hết mình khi còn trẻ. Và đương nhiên cũng thấy đầy tấm gương ngược lại với điều đó, chơi bời khi trẻ và hối hận khi về già. Không có công thức chung nào cho cuộc sống của một con người, vì cuộc đời này không đơn giản đến mức đó.
Chúng ta sẽ quen dần. Một số bạn sẽ đau khổ khi ngoại hình của mình không còn được như lúc trẻ, nhưng đồng thời cũng nhẹ nhõm vì cần dành ít thời gian để quan tâm đến nó hơn. Một số khác sẽ cảm thấy vất vả với con trẻ, nhưng sẽ được bù đắp bằng sự hạnh phúc khi chăm sóc con cái. Chúng ta sẽ thích ngồi ở nhà cả tuần để xem phim, thay vì đến rạp. Rồi ai cũng sẽ thích những bữa cơm gia đình hơn đi ăn uống sang chảnh cùng bạn bè. Tôi tin là thế.
Và quan trọng nhất, như đã nói ở trên. Khi bạn bước sang tuổi già, hãy tìm cho mình những người bạn, những người đồng hành, vì chỉ có những người bạn cùng già với nhau mới có thể hiểu nhau hơn bất kì ai khác. Với riêng tôi đó là những người tôi tiếp xúc hàng ngày ở Monster Box, tôi hy vọng họ sẽ đi cùng tôi đến mục đích cuối cùng. Ở đây chúng tôi hay nói với nhau "chọn bạn đồng hành trước khi chọn đường đi".
Bọn 9x đời đầu ở Monster Box rồi cũng sẽ cùng gia nhập với tôi sớm thôi.
Đến ngày đó, tôi sẽ tặng bọn nó một cây guitar nhân ngày sinh nhật.
#MonsterBox
*Bài viết [Sunday Night With MB] được đăng mỗi 21h tối chủ nhật hàng tuần, là bài viết tâm sự giữa đội ngũ Monster Box và độc giả, không phải bài viết khoa học.
______________
Article by Mr. Ngo Thanh Liem, Monster Box co-founder.
How fast you are aging.
If you are looking forward to a scientific article on the complex biochemical problems associated with aging, how the neurotransmitters blah blah.... affect the psychology of the elderly, or curious about physical changes of the body with respect to age, then this article is not for you.
This is not a science article on old age, it is just an article about the panic of an early 8x beginning to feel the horror of age. Feelings that, soon, you might be going through.
First of all, it should be emphasized that this is just the writer's own perception, not representing any group of people, at any age. The article is for the 9x, 2k generations, if you are not one of them, you can read it for fun.
1. First, the bad news: you will age faster than you think.
No matter how old you are now when reading this article. 15 years old, 18 years old, or 20, 25? Doesn't matter, the gap between "old age" and a 15-year-old or a 25-year-old boy is almost the same.
There are moments, while deep in thought, moments like "Sitting in class, in the first period, I don't know when the time will be over, so I can run home, rush to my computer to game, or watch the next episode of my favorite series ... ". And it seems just a blink of an eye after that thought, time disappears, almost nonexistent, and then you find yourself glancing at this Sunday night article, often forgetting that moment you hear yourself think and forget the whole segment that lies between it and this moment. The blink of an eye can be 1 week for some, 1 month for others, 3 years from reading Monster Box's first article. Or even half a human life. But there is one thing that few people realize about the time spent, is that a day, a month, a year or a whole life does not matter. They are equal, and both encapsulate into an indescribable feeling of regret.
You will find you're aging in the sudden, and then your feelings about everything before and after change deeply. We are often not very good at detecting small changes in our daily lives but are extremely confused by the big, unwanted changes. The moments of realizing you are getting old will come at any time, not at the 25 and 30-year-olds as arid categories often found on useless "health news sites". Those moments of confusion, helplessness, sadness, hopelessness, and feeling of stuck inside the ultimate gridlock come frequently, not just once or twice in life.
To me, one of those times was when I was playing soccer with everyone in Monster Box. A ball is passed by a teammate from the right flank, along the line.
At that time, the brain inside me shouted:
"Come on, that's your chance, speed up, catch the ball in your feet, launch yourself up into the headlights and send a screamer to the top right corner of the goal, and slowly do a hero turn while showering in the celebration of teammates."
Hearing that from the brain, the sluggish body, and the weary legs, exhausted from running half of the mini football field, immediately replied in unison:
"Who, we? Very funny brain..."
Or, another time, I was startled to realize that "these 9x kids", some are over 30 years old, and the "2k" have also started lining up to pass the 20 mark.
Or simply, it's just the moment you get up and feel terrible back pain; or be cautious before staying up late at night because you know how miserable your body will be tomorrow.
Or with Ali Wong, an Asian stand-up comedian, she realizes she's old when walking on the road, comes across a young girl, and in her mind appeared the two words "F*ck you".
2. Even sadder news: you'll be pushed out of the party even faster.
When you go through the feelings in the upper part of this article, be prepared for what happens next: the weekend barbeque will be more fun, when you are not in it.
One of the common misunderstandings with the masses is that the middle-aged generation does not understand the interests, joys, and trends of young people, so they cannot fit in.
Wrong, very wrong. We understand. Our generation also has people who like to play Dota, League, some people like to listen to gang rap, diss rap, some people surf TikTok all day, some still like Son Tung MTP, Den Vau, Min, Amee, Binz. .. even MC ILL, Richchoi. We still know the technology. Of course, not everyone has the same preferences, as well as young people, not everyone likes teen codes and the "dảk dảk bủh bủh". But overall, we're more alike than you might think.
Even, if you did not know, the products that you love most are still being created and managed by people of our generation or the previous generation. Example? Too many: Youtube, Facebook, Instagram, Tiktok, Tinder, Netflix, video games, anime, manga, Rap Viet arena, King Of Rap, reality TV ... admit it, Gen-Z has not had enough time in life to have many great achievements. Rest assured, that time will come, but not today.
So where is the problem? The irony is, it is the prejudices about the old of young people that make old people miserable.
"These 9x kids" and "2k" in Monster Box, even though have been close to me for a few years, but sometimes, these kinds of questions still evoked "yo, holy-shit, you're this old and still listen to this music" (editor's note: Damn Liem :^(, what kind of person made up a slanderous story about bros) Even worse, sometimes the question was aimed at products associated with my time (I'm 8x), like One Piece, Doraemon. To them 9x, they are their own group, and if you were born before 90, you are in a completely different group. I wouldn't be surprised if some of them put me in the same group as their elders. In their eyes I must be the type of "pipe tobacco, listening to post-war music and singing bolero." Don't get me wrong, I like bolero too, but I also like young music, I can still listen to Nhớ Người Yêu by Dan Nguyen, at the same time enjoy Chạy Ngay Đi by Son Tung. And isn't it that many younger people also like Bolero songs? I said we are more similar than you think.
The bad thing here is that those prejudices won't be limited to personal preferences like Son Tung music, or Doraemon. That prejudice also goes into other collective activities, such as playing games or sports, in our conversations, and so on. The way young people communicate with us, unconsciously, is heavily influenced by the stereotype of "old people", whether they admit it or not.
"Nowadays gaming consoles are too advanced, Playstation 5 is coming out, people got these stuff to play, so lucky, in the past, there was nothing to play, I could only play the guitar to pass the time" - 2 weeks ago, before my birthday, I had "suggested" to the team in the company like that. So on my birthday, they gave me a guitar - which I don't fucking know how to play, instead of the Playstation 5, even though the two cost the same because they bought a pretty good guitar. I should have said, "my grandparents in the old days just juggled the Playstation 5 to kill time"...
3. We used to be young, but you guys are never old
There are some statements of young people that are also quite accurate about our generation, one of which is we talk a lot, or like how you're always saying, we preach too much. The older you get, the more you preach, and it doesn't matter whether the other person is listening or not, not all of them are like that, but most are.
I sometimes wonder, when did I become someone I used to hate. In the past I used to call people like the one described above as naggers.
My first assumption for this phenomenon is, maybe we talk more because we "have seen" more. We have seen a lot of bad things happen to young people, which we have already experienced. If you put the us older generation in a separate group, then what makes you think you won't be like us as you get older. And if you think you will be the same as us later in life, what makes you think our voices are wrong. In other words, if you think your future (a wiser version than you are today) will be just like we are now, do you believe in yourself. If you do what the previous generation did, you get exactly what they did. Of course, there will be exceptions. But exceptions are dangerous because most of us think we are exceptional.
Or the second hypothesis, which is also the hypothesis that I believe, the old generation always wants to share their experiences with the younger generation because they still regret their youth. Through the story they share, they will tell about their personal experiences, and through that, they create a present world where they're still young, which they never were. Because they could only live their youth in a different society - in the past. And so, we often hear old people say "when I was the same age, I did not have this or that ...". In other words, when an old person says "I only had a guitar in the past and not a Playstation 5 like today", it means that they want the Playstation 5, not the guitar, Jesus fuckin Christ.
(Editor's note: Why do you think we don't know? Why would anyone accidentally buy a guitar priced close to a PS5 lamo).
The second assumption above leads to another frightening thing, at least for me, we are afraid there will be no time to experience great things in the future. Because we all know that the best entertainment now born is aimed at young people. Young people can choose to play soccer, or play video games, or play soccer video games. Whatever their choices, their world is hardly suitable for the elderly to participate. Young people can choose to sit and play chess with the elderly, but old people cannot go rollerblading with young people. It is not a matter of dignity or preference, and mainly because of the health and body of the elderly. "I wish I lived long enough to experience virtual reality technology like in Black Mirror" - more than 10 times I reassured myself like that.
4. You won't like to get old, and also like it.
Leaving aside things like health declining, losing appetite, starting to live with illnesses, and taking medicine every day like drinking coffee, because as we can all see, I want to talk about the cool stuff as we get older.
First, the people we love will grow old together. I mean, can you imagine how bad it would be if you were forever young, and your friends around you, your lover, your husband and wife are getting older every day? If that happens it's bad for you, not for them. Friends have chosen to stay for a variety of reasons, it's great to be able to travel with them on trips from place to place, but even better being able to cross the timeline with them, from this milestone to the next. If you have the same interests, it stays the same, if you make mistakes, they are also easier to forgive, and the best is that you will also be happy to see yourself treat others with the same old kindness.
Next, you'll get respect from young people, at least on the outside. This is fun, but it can also come with harm. One of the reasons the guys in Monster Box didn't ask me to play with him was because even if I do badly, or if I played Yasuo like a complete newbie, they couldn't swear at me as they did with each other. There was a Sunday article that the content writer guy threw shade at me because when we played soccer I could curse at them, but they can't. Or in some worse cases, when we go out to eat together, I will be given the bill by the waiter first because I look the most senior.
One of the funny things is that your words will look a little more believable, just a little bit, even though the content can be spoken out by any age group. To clarify this phenomenon, imagine an older person saying something like "try to study, don't joke around", and then imagine the same sentence being said by your 12 years old brother or grandson.
Or on New Year's Day, you have the right to play dirty with your nephew by asking questions like when will you get married, how much money you saved for this Tet, what job are you having... and he can't do shit.
You will also make more money in the same position as young people through years of experience, even if the performance is the same, sometimes the elderly are even less efficient. Don't be quick to protest, this is realistic, because sometimes "work performance" is something that is difficult to grasp for most positions, so employers will pay higher salaries for people with years of expertise. In return for this, it will be harder to find a job as you get older, because HR cannot negotiate an average salary for an older person, but they cannot pay more for that position. Sources for this research result: based on me. Haha, have I said this is not a scientifically based article yet.
At least you will have time to read books or other activities alone because younger people will be less likely to ask you to hang out with them, this comfort is partly due to the older you get, the FOMO (fear of missing out) will have less impact on you. Maybe because you're used to being "missing out" already, maybe, as I said above, the party will be more fun without your presence.
You will also feel happier with your partner as you get older. This is quite counterintuitive for most of us, since we often see young people show their love more passionately than the elderly, but showing that doesn't mean it's deeper. Source: me. Although this is not true for everyone else, just leave here in case my wife reads this article. Hello wife!
Old age will also help you to lessen the psychological burden of peer pressure, as your social outlook has somewhat changed, and since you have a lot of things right now to care about rather than peer pressure. Of course, it didn't go away, but it got a lot better. Also because the peer pressure of the middle-age group is so terrible, so no one is crazy enough to consider it something to care about. Because contrary to younger people, who are still full of enthusiasm and pure belief that they will change their life after getting a university degree, a position in a big corp or succeeding their startup project; us old age, when we saw our peers great wealth, or the fullness of their life, we understand that behind those successes is a rather… complicated story. And the origin of that complexity had happened long before. Once on the other side of the slope, people will find that enjoying the rest of their journey is better than trying to conquer other mountains.  
(Editor's note: you can put pressure on others, who can pressure you).
5. What should you prepare for old age
Nothing.
Because of the fear that we will be pushed out, and the efforts to find ways to delay and prepare for it, making us cling to the youth. At the same time is also what makes us old even when old age hasn't come. Do whatever you're doing, keep having fun when the games are still going. Then automatically we will be pushed out of the fun by the younger, slow enough so we won't feel too much loss.
If you are trying to use your youth to hone your knowledge, work hard to prepare for the future, that's good for you. If you don't, and you still want to enjoy your youth, that's still okay. Unlike those how-to-get-rich classes or self-help books, there is no exact answer to what a person should do when he is young. I have seen countless instances of successful people getting old but regretting the time when they were young. And of course also see the opposite example of that, partying through their youth and regretting as an old man. There is no general formula for life because life is not that simple.
We will get used to it. Some of you will suffer when your appearance is no longer the same as when you were younger, but at the same time, you will be relieved that you need to spend less time paying attention to it. Others will struggle with children, but will be compensated for by the happiness of taking care of them. We would rather sit at home all week watching movies, instead of going to the theater. In time, we all gonna prefer the cozy family dinner rather than those fancy eating out. I believe that.
And most importantly, as I said above. When you reach old age, find yourself a friend, a companionship, because only friends who grow old together understand each other. To me, they are people I meet everyday in the Monster Box office. I hope they will walk with me till the final destination. We had a saying here: "Choose your companion before you choose the road."
You 9x boys in Monster Box are gonna join me soon.
And on that day, I will buy all of you a guitar on your birthday.
#MonsterBox
- Artist: Sam.
- Trans: Huy.


THÁP NHU CẦU CỦA MASLOW ĐÃ BỊ LẠM DỤNG NHƯ THẾ NÀO.

THÁP NHU CẦU CỦA MASLOW ĐÃ BỊ LẠM DỤNG NHƯ THẾ NÀO.
Ở những năm cuối đời, Abraham Maslow đã trăn trở rằng, "Vì sao nhiều người sau khi đã được đáp ứng các nhu cầu cơ bản, không tự hiện thực hóa những ước mơ của đời mình? Làm thế nào để ta có thể hiểu được một cách nhân văn những vấn đề của cái ác?" [1].
Với xuất thân là một trong những thế hệ người Do Thái đầu tiên nhập cư ở Mỹ, thuộc tầng lớp lao động, tuổi thơ của ông không dễ chịu vì phải đối mặt với sự bắt nạt của các băng đảng bài Do Thái lúc bấy giờ. Hơn thế, Maslow còn không hòa thuận với mẹ của mình, thậm chí có cảm giác tiêu cực với người phụ nữ đã sinh ra ông, người mà theo ông miêu tả là khiến ông khó chịu về cả ngoại hình lẫn thế giới quan, vì "sự keo kiệt, ích kỷ và thiếu cảm thông với bất kỳ ai khác trên thế giới - ngay cả với chồng và con - cùng lòng tự kiêu của bà, cùng thành kiến với người da đen, thói lợi dụng và sự cực đoan cho rằng ai không đồng ý với bà đều là sai, luộm thuộm, bẩn thỉu và không có bạn bè, thậm chí không có xúc cảm với cả người thân của mình".
Sự căm ghét người đã sinh ra mình, từ một trong những nhà tâm lý học con người nổi tiếng nhất của thế kỷ 20, có lẽ liên quan nhiều đến nhiều ký ức đau đớn của Maslow với mẹ. Vì theo như ghi chép, bà đã từng cầm hai chú mèo con đập vào nền bê tông đến nát đầu trước mặt cậu bé Maslow, khi Maslow nhặt chúng từ đường phố về nuôi lén dưới tầng hầm và cho chúng uống sữa bằng đĩa của gia đình [2].
Xuất thân từ quá khứ không mấy êm đẹp như vậy, Maslow hiếu học và có con đường thăng tiến trong học thuật tương đối trơn tru từ khi bắt đầu đi học cho đến tận khi đã xuất bản những công trình khoa học về tâm lý nổi tiếng của mình. Nổi bật có thể kể đến tháp nhu cầu, một trong những lý thuyết tâm lý học nổi tiếng nhất của thế kỷ 20.
Đồng thời cũng là một trong những lý thuyết lỗi thời bị lạm dụng nhất ở thế kỷ 21.
A. Tháp nhu cầu của Maslow.
Trước khi đi sâu vào lý do vì sao nên cẩn thận với Tháp nhu cầu của Maslow, chúng ta cần biết đó là gì. Phần này sẽ tóm tắt lại lý thuyết của Maslow dựa trên bài viết của Simply Psychology [3].
Tháp nhu cầu của Maslow là một lý thuyết để tìm hiểu động lực của con người dựa trên kim tự tháp nhu cầu gồm 5 bậc. Hãy lưu ý rằng đây là mô hình chỉ nhằm phục vụ tìm hiểu về động lực của con người, không nên mở rộng nó ra những lĩnh vực khác; và cũng cần lưu ý rằng đặc điểm của mô hình này là tính phân cấp, từ thấp lên cao. 5 bậc này gồm:
1. Nhu cầu sinh lý: ăn, uống, ngủ, nghỉ, giữ ấm, tình dục…
2. Nhu cầu về sự an toàn: sự trật tự, ổn định, khả năng dự đoán và kiểm soát cuộc sống.
3. Nhu cầu về tình yêu và sự thuộc về: tình bạn, sự thân thiết, sự tin tưởng, sự chấp nhận, được nhận và trao đi tình yêu, là một phần của các nhóm xã hội…
4. Nhu cầu được tôn trọng: lòng tự trọng đối với bản thân (phẩm giá, thành tích, khả năng làm chủ, sự độc lập) và sự tôn trọng từ người khác (danh tiếng, địa vị, uy tín).
Và:
5. Nhu cầu hiện thực hóa ước muốn của bản thân: hoàn thiện bản thân, có những trải nghiệm đỉnh cao, có khả năng làm những việc mình muốn, trở thành phiên bản tốt nhất có thể của chính mình.
Các nhu cầu thấp hơn phải được thỏa mãn trước khi các cá nhân có thể đáp ứng các nhu cầu cao hơn. Trong 5 bậc nhu cầu, 4 bậc đầu là nhu cầu thiếu hụt, còn bậc 5 là nhu cầu tăng trưởng. Các nhu cầu thiếu hụt thường là sự thiếu thốn, nên sẽ là động lực để thúc đẩy mọi người bù đắp vào nó. Thời gian thiếu hụt càng lâu, động lực càng mạnh mẽ, như một người không được ăn càng lâu, họ sẽ càng đói.
Khi các nhu cầu thiếu hụt được thỏa mãn, nó sẽ biến mất và người ta sẽ hướng đến những nhu cầu cao hơn, cao nhất là nhu cầu tăng trưởng, tức bậc 5, bậc hiện thực hóa. Các cá nhân có thể liên tục dao động liên tục giữa các bậc và không nhất thiết sẽ đạt được bậc 5 trong suốt cuộc đời của mình.
Maslow đã phát triển mô hình của mình liên tục qua nhiều thập kỷ, vào các mốc 1943, 1962 và 1987. Ban đầu, ông cho rằng bậc 5 sẽ chỉ được đáp ứng khi đã được đáp ứng trọn vẹn các nhu cầu ở những bậc thấp hơn, nhưng về sau ông đã bổ sung rằng "không nhất thiết phải thỏa mãn 100% nhu cầu ở cấp thấp thì nhu cầu ở cấp cao hơn mới xuất hiện". Trong cuốn sách xuất bản năm 1987 (17 năm sau khi ông qua đời), Maslow lại tiếp tục bổ sung rằng trật tự của hệ thống cấp bậc này "gần như không cứng nhắc" như ông đã ngụ ý từ trước đó, nhưng dù có thể thay đổi linh hoạt với từng cá nhân, nó vẫn mang tính phân cấp ở cá nhân đó.
Số lượng cấp bậc cũng đã được thay đổi, thêm một vài bậc, tổng số là 8, cụ thể như sau:
1. Nhu cầu sinh học và sinh lý.
2. Nhu cầu an toàn.
3. Nhu cầu tình yêu và sự thuộc về.
4. Nhu cầu về sự tôn trọng.
*(thêm) 5. Nhu cầu nhận thức: khát khao kiến thức, sự tò mò, khám phá và đi tìm khả năng dự đoán, nắm bắt ý nghĩa của bản thân và thế giới.
(thêm) 6. Nhu cầu thẩm mỹ: đánh giá cao và tìm kiếm vẻ đẹp, sự cân đối, hình thức.
7. Nhu cầu tự hiện thực hóa.
(thêm) 8. Nhu cầu siêu việt: tìm kiếm những giá trị vượt cá nhân, như những trải nghiệm thần bí, trải nghiệm tuyệt vời với tự nhiên, trải nghiệm tình dục độc đáo, phục vụ người khác, theo đuổi khoa học và niềm tin tôn giáo…
*[Từ bậc 5 trở đi là nhu cầu tăng trưởng, dưới đó là nhu cầu thiếu hụt].
Maslow cũng có bản mô tả về những người đã vượt qua mức 5, tức đạt được khả năng tự hiện thực hóa bản thân, đó là những người: biết cách nhìn nhận thực tế và chịu đựng được sự không chắc chắn, chấp nhận bản thân và người khác, lấy vấn đề làm trung tâm (không xem bản thân là trung tâm), hài hước như một bản năng, thiết lập được mối quan hệ cá nhân sâu sắc và đặc biệt với một số người nhất định, có những trải nghiệm đỉnh cao, có các tiêu chuẩn đạo đức nghiêm khắc, quan tâm đến phúc lợi của nhân loại, sáng tạo cao…
Ông cũng liệt kê một số hành vi có thể giúp một ai đó đạt được mốc 5 trở lên: trải nghiệm cuộc sống như một đứa trẻ với sự hứng thú và tập trung toàn vẹn, thử những điều thứ mới mẻ, lắng nghe cảm xúc của bản thân thay vì của số đông, tránh giả vờ và luôn trung thực, sẵn sàng đối mặt với việc quan điểm của bản thân không trùng khớp với đa số, trách nhiệm và chăm chỉ, tìm ra những cách bản thân hay dùng để phòng thủ và sẵn sàng từ bỏ chúng...
Maslow cũng nói rõ rằng mỗi người sẽ đạt được trạng thái hiện thực hóa của riêng mình và việc đạt được nó không nhất thiết dẫn đến một con người hoàn hảo hay hoàn thiện; ước chừng chỉ khoảng 2% dân số đạt được khả năng này (khoảng 160 triệu người tính theo số dân hiện nay).
Dưới góc nhìn cá nhân, nếu hỏi liệu tôi có thích lý thuyết này không, câu trả lời sẽ là có. Tôi tìm thấy bản thân ở những mốc đâu đó nằm trong khoảng nhu cầu tăng trưởng, nhìn chung là một điều đáng để tự hào. Lý thuyết này cũng khá đơn giản, dễ hiểu và ngập tràn màu sắc tích cực. Đúng, lý thuyết này quá đơn giản, dễ hiểu và ngập tràn màu sắc tích cực.
B. Dưới góc nhìn học thuật.
Tháp nhu cầu của Maslow là một trong những thành tựu nổi bật của tâm lý học nhân văn. Phân ngành này ra đời vào khoảng giữa thế kỷ 20, như một phong trào phản ứng lại với sự xuất hiện của phân tâm học Freud. Trái ngược với các quan điểm của Freud, vốn tập trung vào những điểm tối, tiêu cực nằm sâu bên trong con người, tâm lý học nhân văn cho rằng con người, với tư cách là cá nhân, là những sinh thể độc nhất và nhìn chung là hướng thiện một cách bẩm sinh [4].
Tâm lý học nhân văn dựa trên một số giả định quan trọng [5]:
- Con người có ý chí tự do (free will), một quan điểm triết học mang màu sắc hiện sinh.
- Con người về cơ bản là tốt và có nhu cần bẩm sinh muốn bản thân và thế giới trở nên ngày càng tốt đẹp hơn.
- Mọi người đều có động lực cao nhất là tự hiện thực hóa.
- Những kinh nghiệm chủ quan, có ý thức của cá nhân là quan trọng nhất.
- Phương pháp luận khoa học là không cần thiết.
- Con người là độc đáo, vì vậy việc so sánh với các loài động vật khác là không cần thiết và vô giá trị (nghĩa là các thí nghiệm tâm lý ở chim, chuột, khỉ… sẽ cho biết rất ít hoặc không thể giải đáp được hành vi ở người).
Tháp nhu cầu không phải ngoại lệ, và đều dựa trên toàn bộ những giả định phía trên này, vì vậy, dưới góc nhìn khoa học, tháp của Maslow nói riêng và tâm lý học nhân văn nói chung đều gặp nhiều vấn đề. Tôi sẽ đi vào phân tích một số điểm dễ hiểu với đại chúng ở phần sau, nhưng có lẽ trước tiên chúng ta nên tiếp cận ngay từ nền tảng và phân tích dựa trên quan điểm khoa học.
Đầu tiên, giả định rằng mỗi người đều nắm giữ quyền tự do định đoạt số phận, tức free will, đã khiến chúng bị lung lay ít nhiều khi phái tất định (determinism) đang thắng thế trong cuộc tranh cãi ở quy mô lớn, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học chính xác. Hơn nữa, một mặt các nhà tâm lý học nhân văn khẳng định rằng con người có ý chí tự do, mặt khác lại lập luận rằng hành vi của mỗi người được xác định bởi cách người khác đối xử với họ (?!). Chẳng hạn, sự tôn trọng như thế nào, kỳ vọng về tình yêu ra sao, hiện thực hóa điều gì, ăn bao nhiêu, đôi lúc được xác định bởi cộng đồng. Vì vậy, trong khi Maslow và tâm lý học nhân văn cho rằng con người có tự do ý chí, thực tế lại cho thấy những gì họ thiếu hụt không nhất thiết bản thân họ có thể tự tìm cách đáp ứng được và quan trọng hơn là không nhất thiết họ tự quyết định bao nhiêu, như thế nào và ra sao.
Thứ hai, cách tiếp cận của trường phái này cũng đề cao tính cá nhân thay vì sự phổ quát, nên phần lớn cách giải thích, diễn giải mang tính ngôn từ hơn là những quy tắc cụ thể. Chẳng hạn, trong trường hợp của khoa học nhận thức thần kinh, những hành vi của con người sẽ được diễn giải dựa trên nền tảng sinh học là cấu trúc não bộ, từ đó tạo ra được bộ quy tắc mang tính phổ quát. Trong khi tháp nhu cầu của Maslow lại được lưu ý là "cần phải sử dụng linh hoạt với từng cá nhân và trường hợp cụ thể".
Thứ ba, tháp nhu cầu của Maslow không dựa trên bất kỳ bằng chứng thực nghiệm nào, không tuân theo phương pháp luận khoa học bài bản và nhìn chung là thiếu đi sự hỗ trợ của các bằng chứng khoa học. Chính Maslow cũng biết và thừa nhận điều này. Thậm chí có thể xem rằng đây là một lý thuyết phi khoa học do phương pháp luận không đáng tin cậy và hầu như không có bằng chứng thực nghiệm.
Thứ tư, lý lẽ của tháp Maslow khá chung chung và không cụ thể, ở hầu hết mọi khía cạnh, đặc biệt trong cách dùng từ ngữ. Chẳng hạn, "tự hiện thực hóa" là một khái niệm mơ hồ.
Để xây dựng nên học thuyết này, Maslow chỉ dựa trên ghi chép và tiểu sử của 18 người ưu tú mà ông tự cho là những người đã vượt qua mốc 5, bao gồm những cá nhân như Albert Einstein, Thomas Jefferson, Abraham Lincoln, Beethoven... Bản thân phương pháp phân tích tiểu sử đã không khoa học, phân tích dựa trên đánh giá của riêng Maslow lại càng không khoa học. Trong những người ông lựa chọn nghiên cứu, toàn bộ là những nam giới da trắng có học vấn cao, nhưng lại được Maslow kỳ vọng là sẽ tìm ra được nguyên tắc đúng với mọi người trên thế giới. Đến năm 1970, ông đã bắt đầu nghiên cứu nhiều đối tượng là phụ nữ hơn, nhưng số này vẫn chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong mẫu. Ngoài ra, không có bất kỳ bằng chứng sinh học hay khảo sát thực nghiệm nào khác hỗ trợ.
Vì vậy, lý thuyết của Maslow hay tâm lý học nhân văn nói chung mặc dù kỳ vọng sẽ giúp hiểu rõ động lực của con người trên toàn thế giới, nhưng những gì họ nghiên cứu và đề cao lại chỉ thu hẹp trong đặc điểm của một nhóm thiểu số. Các ý tưởng chủ đạo của lý thuyết này nặng màu sắc xã hội phương Tây, đặc biệt là chủ nghĩa cá nhân, cho rằng bản thân mỗi người cần tự tạo động lực, tự giúp đỡ bản thân và sau cùng là hướng đến sự phát triển của chính mình. Điều này không đúng với văn hóa Á Đông, vốn mang nặng tính xã hội, cộng đồng và mặc dù lợi ích cá nhân vẫn tồn tại, có thể thấy rõ ràng họ đặt nặng nhu cầu về sự chấp nhận và lợi ích của cộng đồng hơn là cá nhân.
Cuối cùng, thứ giá trị nhất của tháp nhu cầu là tính xếp hạng, tức sự lên xuống, chuyển đổi giữa các bậc và hướng về phía trên, lại gặp nhiều vấn đề nhất và dường như không có nhiều giá trị. Chẳng hạn, nhiều cá nhân nổi bật trong lịch sử (như Rembrandt và Van Gogh) vốn có cuộc đời khó khăn và thiếu hụt hầu như mọi nhu cầu căn bản, nhưng vẫn thực hiện được nhu cầu hiện thực hóa cá nhân vốn nằm ở bậc cao nhất. Hay ở nhiều xã hội, mặc dù người dân vẫn chưa được đáp ứng nhu cầu về an toàn, ăn uống ở bậc cuối, nhưng họ vẫn cần nhu cầu về sự tôn trọng và tình thương. Đôi lúc những nhu cầu này còn cao hơn cả nhu cầu căn bản. Hay một nhu cầu khác vốn được xếp ở bậc cao hơn là nhu cầu theo đuổi đức tin hay sự tò mò, truy cầu sự thật, vốn vẫn luôn hiện diện ở những người nghèo khó trong xã hội hay các binh sĩ trong trận chiến vốn có số phận bấp bênh, kém an toàn.
Với toàn bộ những hạn chế này, đặc biệt ở sự thiếu hụt bằng chứng khoa học và các phương pháp luận đáng tin cậy ngay từ đầu, tháp nhu cầu của Maslow mang màu sắc ý tưởng hơn là một lý thuyết khoa học đáng tin cậy. Tuy vậy, tháp nhu cầu nói riêng hay tâm lý học nhân văn nói chung vẫn được vận dụng trong một phạm vi rất nhỏ của tâm lý học, phục vụ trị liệu, tư vấn tâm lý. Nhìn chung là được dùng để phục vụ giải quyết những vấn đề cá nhân hơn là hướng đến giải đáp những câu hỏi phổ quát, vì cảm nhận và kỳ vọng của cá nhân này không thể đại diện cho những cá nhân khác.
Trên thế giới, tháp nhu cầu đã lỗi thời hàng chục năm và không còn được ứng dụng nhiều nữa, đặc biệt trong bậc giáo dục Đại học hay trong nghiên cứu tâm lý học.
C. Sự lạm dụng vô tội vạ của đại chúng.
Tháp nhu cầu của Maslow đặc biệt phổ biến trong đại chúng, hơn bất kỳ lý thuyết tâm lý nào khác. Có lẽ điều này đến từ sự đơn giản, dễ hiểu, có tính chất thăng cấp như chơi game và phù hợp với quan điểm phổ biến. Tôi nghĩ rằng bất kỳ ai khi nhìn vào nó cũng nhanh chóng ứng được nó vào bản thân mình.
Tuy vậy, như đã lưu ý ở phía trên, tháp nhu cầu chỉ là một mô hình nghiên cứu về động lực của con người, chỉ hữu dụng trong phạm vi trị liệu cá nhân và thiếu hụt nghiêm trọng khả năng giải đáp những câu hỏi lớn. Nhưng đại chúng đã dùng chính tháp nhu cầu này để giải đáp cho hầu như mọi vấn đề phức tạp: quản trị nhân sự, tình yêu, chiến tranh, tệ nạn xã hội hay thậm chí sự tồn tại của các giai cấp.
Hãy nhớ rằng đến chính Maslow, cha đẻ của tháp nhu cầu, đến tận giây phút cuối đời vẫn trăn trở về nguyên nhân của những vấn đề như tôi đã dẫn lời ở đầu bài viết này. Nhưng hơn hết, ở phần sau của sự nghiệp, Maslow cũng chịu ảnh hưởng của phong trào hippies và cho rằng các loại thuốc gây ảo giác như LSD hay nấm có thể giúp một số người trong một số hoàn cảnh trải qua trải nghiệm đỉnh cao như ông mô tả ở tầng 8. Ông cũng chịu ảnh hưởng của làn sóng Thời Đại Mới và áp dụng các thuật ngữ yoga cho lý thuyết của mình. Về sau cùng, Maslow đã cho rằng đỉnh cao nhất trong trải nghiệm của một người có liên quan đến hoạt động mang nặng màu sắc tâm linh và các hoạt động khác mang màu sắc ma túy [6].
Sau nhiều bản cập nhật liên tục cho lý thuyết của mình, Maslow cũng bị chỉ trích vì đã đưa ra quá nhiều ngoại lệ. Chẳng hạn, ông tạo ra hệ thống phân cấp từ thấp lên cao, nhưng lại nói rằng không nhất thiết đó là trật tự cứng nhắc (?!). Khi xem xét và đồng ý với các ngoại lệ, lý thuyết của Maslow dần trở thành một dạng quan điểm thông thường (common sense) mà ai cũng có thể nhìn ra được. Đặc biệt, gần như mọi nhu cầu trong nhóm nhu cầu thiếu hụt tồn tại ở cả động vật, đặc biệt là động vật có vú, như nhu cầu sinh lý, hay thậm chí là nhu cầu về tương tác cộng đồng và sự tôn trọng, không có vẻ gì là đặc biệt ở con người. Điều này gây ra mâu thuẫn, vì theo quan điểm của trường phái tâm lý học nhân văn, con người phải khác biệt và đặc thù, đồng thời cho rằng không thể so sánh được hành vi giữa động vật và người với nhau.
Sự phân cấp về tính cấp thiết của từng nhu cầu cũng tạo ra cảm nhận sai lệch về thực tế, vì chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng thực chất mọi người cần đồng thời nhiều nhu cầu được đáp ứng cùng một lúc và mức độ ưu tiên không hề phổ quát. Xã hội và con người về cơ bản là phức tạp hơn nhiều so với mô hình đơn giản của Maslow.
Nhìn chung, lý thuyết của Maslow không có gì khó hiểu và đặc biệt, điều khó hiểu là vì sao chúng lại phổ biến trong đại chúng đến mức bạn có thể thấy người ta tuyên bố rất nhiều thứ chỉ dựa trên mở đầu câu rằng "Theo tháp nhu cầu của Maslow, con người…" như thể đó là cách thực tế thực sự diễn ra. Từ sự lạm dụng vô tội vạ này, gốc rễ của nhiều vấn đề phức tạp được đặt lên vai của các cá nhân, thay vì những yếu tố khách quan khác. Vì ngay từ đầu, lý thuyết của Maslow đã trung thành dựa trên giả định và xoay quanh động cơ cá nhân, bỏ qua sự thật rằng con người là một sinh vật xã hội và gắn liền với sự hợp tác.
Chẳng hạn, một số nhóm cho rằng cốt tủy các tệ nạn xã hội là do một số cá nhân cần được đáp ứng nhu cầu ở tầng thấp nhất, bao gồm ăn, ở và tình dục, như một động lực để họ làm mọi giá để đạt được nó. Điều này đã đơn giản hóa một hiện tượng xã hội phức tạp và hoàn toàn cho rằng tội phạm là một hiện tượng được sinh ra từ mong muốn ích kỷ của một số cá nhân nhằm đáp ứng nhu cầu thấp kém của riêng họ.
Vào thế kỷ 20, tháp nhu cầu đã được dùng để áp dụng trong quản trị và giáo dục. Về cơ bản, đây là một mục đích nhân văn và tích cực, theo đúng như tinh thần và mong muốn của trường phái tâm lý học nhân văn. Nó đã hữu ích ở một mức độ nhất định, giúp các nhà làm giáo dục hiểu rằng trẻ em sẽ không thể học tốt với chiếc bụng đói, tương tự với người lao động. Tháp nhu cầu cũng là lời giải đáp cho hệ thống quan liêu theo cấp bậc, giúp các nhà quản lý biết rằng không phải mọi nhân sự đều có nhu cầu giống nhau cũng như không phải tiền lương có thể giải quyết được vấn đề về năng suất ở những vị trí cao hơn. Nhưng chính tháp nhu cầu lại ra những lộ trình không thực tế để giải quyết vấn đề này khi đặt tất cả mọi người vào một tiến trình cứng nhắc và khiên cưỡng. Trên thực tế, học sinh trong một lớp học và nhân viên của một công ty không nhất thiết đều có nhu cầu hướng đến khả năng tự hiện thực hóa hay những lý tưởng dạng "sách giáo khoa" như vậy. Mọi người có những mong muốn đa dạng và nhu cầu đa dạng, chịu ảnh hưởng bởi người xung quanh, hơn là mong muốn cá nhân thuần khiết.
Maslow và tâm lý học nhân văn đã quá sa đà vào góc nhìn nhân văn và tích cực mà hoàn toàn loại bỏ đi sự tồn tại của những thứ vốn được xếp loại là tiêu cực. Cụ thể, Maslow đã tự gọi trường phái của mình là tâm lý học tích cực và chỉ nghiên cứu trên những cá nhân mà ông đánh giá là khỏe mạnh về mặt tinh thần, không nghiên cứu những người có vấn đề về tinh thần. Đây có thể là một động thái cưỡng lại có chủ ý đối với màu sắc tiêu cực của những trường phái tâm lý học cũ, đặc biệt là phân tâm học, vốn là thứ đã thúc đẩy sự ra đời của phong trào tâm lý học nhân văn. Tuy vậy, việc né tránh những điều tiêu cực khiến các nhà tâm lý học nhân văn dù rằng đã tạo ra một luồng gió mới cho tâm lý học, nhưng đồng thời cũng khiến họ không nhìn thấy được bức tranh toàn diện về thế giới. Hàng loạt hiện tượng nghiêm trọng như chiến tranh, nạn diệt chủng và hơn thế đã không thể được giải đáp thông qua quan điểm của trường phái này.
Trái với mong muốn tích cực của các nhà tâm lý học nhân văn như Maslow, công chúng đôi lúc còn lạm dụng mô hình dạng tháp phân cấp này để phân loại lẫn nhau. Cụ thể, một số nhóm đã cho rằng những người đang loay hoay tìm cách đáp ứng các nhu cầu ở tầng thấp thấp kém hơn những cá nhân đã tìm được cách tự hiện thực hóa mong muốn bản thân. Dù rằng, quy chuẩn cho rằng tự hiện thực hóa với những biểu hiện của nó (đã nêu ở trên), chủ yếu được xây dựng dựa trên việc Maslow quan sát các cá nhân là nam giới da trắng có học thức ở xã hội phương Tây vào thế kỷ 20.
Trong bối cảnh xã hội hiện nay, việc tiến đến khả năng hiện thực hóa là bất khả với phần lớn thành viên trong xã hội, thậm chí không tìm ra được bất kỳ lý do vững chắc nào cho thấy một người phải làm thế. Maslow cũng đã đánh giá quá cao ý chí cá nhân trong việc tự hiện thực hóa bản thân, vì để tiến đến việc trở thành một nhạc sĩ chơi dương cầm thành công, rốt cuộc có phải hoàn toàn dựa trên mong muốn của cá nhân chúng ta? Nếu không, vậy mọi thứ còn ý nghĩa gì, vì dù rằng đúng là luôn có đa dạng sự lựa chọn trong xã hội, nhưng đa dạng lựa chọn có đi kèm với tự do lựa chọn, hay chỉ là một sự sắp đặt phức tạp?
"Vì sao nhiều người sau khi đã được đáp ứng các nhu cầu cơ bản, không tự hiện thực hóa những ước mơ của đời mình? Làm thế nào để ta có thể hiểu được một cách nhân văn những vấn đề của cái ác?".
Có lẽ vì tự hiện thực hóa những ước muốn của bản thân từ đầu vốn đã không phải là đích đến của tất cả mọi người, còn cái ác thì không thể chỉ được hiểu rõ chỉ thông qua góc nhìn của nhân văn.
Về sau cùng, Maslow vẫn chưa giải đáp được nhiều vấn đề cho lý thuyết của mình, trước khi qua đời do lên cơn đau tim trong lúc đang chạy bộ vào mùa hè năm 1970. Tuy vậy, ông vẫn là một trong những biểu tượng lớn của tâm lý học, người tiên phong thổi làn gió tích cực vào ngành nghiên cứu tâm lý con người. Tâm lý học, cho đến tận hôm nay, vẫn chỉ ở bình minh của chính nó và quá non trẻ khi so với các ngành khoa học khác. Việc lý thuyết của Maslow, hay bất kỳ lý thuyết tâm lý nào khác đang tồn tại, chưa thể giải quyết các câu hỏi lớn của nhân loại không phải là sự thật quá bất ngờ.
Nhưng có lẽ nhiều người nên biết về điều này, trước khi mang các lý thuyết chưa hoàn thiện này đi giải quyết các vấn đề phức tạp một cách vô tội vạ, và nghĩ rằng mình đang nhìn thấy sự thật.
#MonsterBox
__________________
How Maslow's Hierarchy of Needs being abused
In the last years of his life, Abraham Maslow wondered, "Why don't more people self-actualize if their basic needs are met? How can we humanistically understand the problem of evil?" [first].
One of the first generations of Jewish immigrants in the US, from the working-class, he got troubled childhood facing bullying by anti-Semitic gangs at that time. More than that, Maslow doesn't get along with his mother, even having negative feelings towards the woman who gave birth to him, who he described as annoying both in appearance and worldview,  because of "her stinginess, her total selfishness, her lack of love for anyone else in the world – even her own husband and children – her narcissism, her Negro prejudice, her exploitation of everyone, her assumption that anyone was wrong who disagreed with her, her lack of friends, her sloppiness and dirtiness, her lack of family feeling for her own parents and siblings...".
His hatred of the person who gave birth to him, from one of the most famous human psychologists of the 20th century, probably has much to do with Maslow's painful memories of his mother. According to the record, she once held two kittens against the concrete floor to crush their heads in front of the boy Maslow, when Maslow hid them in the basement and gave them milk on a family plate [2].
Coming from such an uneasy past, Maslow is fond of learning and has a relatively smooth path of academic advancement from the time he started school until he published the famous scientific works on psychology. The most significant is the Hierarchy of Needs, one of the most famous psychological theories of the 20th century.
At the same time, it is also one of the most abused outdated theories in the 21st century.
A. Maslow's Hierarchy of Needs
Before diving into why we should be careful with Maslow's theory, we need to know what it is. This section summarizes it based on the article of Simply Psychology [3].
Maslow's Hierarchy of Needs is a theory to understand human motivation based on a five stages pyramid. Please note that this is a model only for the purpose of understanding human motivation, it should not be extended to other areas; It should also be noted that the feature of this model is dividing into levels, from low to high. These 5 stages include:
1. Biological and physiological needs: eat, drink, sleep, rest, keep warm, sex ...
2. Safety needs: order, stability, ability to predict and control life.
3. Love and belongingness needs: friendship, intimacy, trust, acceptance, receiving and giving love, being part of social groups ...
4. Esteem needs: self-esteem (dignity, achievement, ability to master, independence) and respect from others (reputation, status, prestige).
And:
5. Self-actualization needs: perfecting oneself, having top-notch experiences, being able to do what you want, becoming the best version of yourself.
The most basic needs must be met before they become motivated to achieve higher-level needs. Of the 5 tiers of need, the first 4 tiers are the deficiency needs, and the 5th tier is the demand for growth. Insufficient needs are often deprivation, so it will be a motivating force to make up for it. The longer the shortage time, the stronger the motivation, the longer a person cannot eat, the more hungry they will be.
When the deficit needs are satisfied, it disappears and people will turn to higher needs, the highest is the need for growth, i.e. the fifth tier, the need for actualization. Individuals may continuously fluctuate between steps and will not necessarily reach 5th during their lifetime.
Maslow has been developing his model continuously over the decades, in the years 1943, 1962, and 1987. Initially, he assumed that the fifth tier would only be met when the needs of the lower levels were fully met, but he later added that " it is not necessary to satisfy 100% of the demand at the lower level for demand at the higher level to emerge ". In a 1987 book (17 years after his death), Maslow goes on to add that the order of this hierarchy is "not nearly as rigid" as he had previously implied, but though can be flexibly changed for each individual, it is still decentralized in that individual.
The number of stages has also been changed, adding a few more, to a total of 8, as follows:
1. Biological and physiological needs.
2. Safety needs.
3. Love and belongingness needs.
4. Esteem needs.
*(Added) 5. Cognitive needs - knowledge and understanding, curiosity, exploration, need for meaning and predictability.
(Added) 6. Aesthetic needs - appreciation and search for beauty, balance, form, etc.
7. Self-actualization needs.
(Added) 8. Transcendence needs - A person is motivated by values which transcend beyond the personal self (e.g., mystical experiences and certain experiences with nature, aesthetic experiences, sexual experiences, service to others, the pursuit of science, religious faith, etc.).
* [From level 5 onwards is the need for growth, below is deficit needs].
Maslow also has descriptions of people who have passed stage 5, attaining the ability to realize themselves, who: know how to see reality and tolerate uncertainty, accept self oneself and others, problem-centered (not self-centered), humorous as an instinct, establishing special and deep personal relationships with certain people, top-notch experience, strict ethical standards, concern for the welfare of humanity, high creativity ...
He also listed a few behaviors that could help someone reach the 5th stage or higher: experiences life as a child with full focus and excitement, tries new things, listens to emotions of yourself instead of the majority, avoids pretending and always be honest, be willing to think your views don't match with the majority, be responsible and hardworking, finds out ways you use to defend and willingly gives them up…
Maslow also made it clear that each person will achieve his or her own actualization and that achieving it does not necessarily lead to a perfect or accomplished person; it is estimated that only about 2% of the population has this capacity (about 160 million people based on current population).
Personally, if asking would I like this theory or not, the answer will be yes. I find myself somewhere in the range of need for growth, which is generally something to be proud of. This theory is also quite simple, easy to understand, and filled with positivity. Yes, this theory is too simple, too easy to understand, and filled with too much positivity.
B. From an academic point of view.
Maslow's hierarchy of needs is one of the outstanding achievements of humanistic psychology. This sub-discipline arose around the mid-20th century, as a movement in response to the emergence of Freudian psychoanalysis. Contrary to Freud's viewpoint, which focuses on the dark, negative points deep inside man, human psychology holds that humans, as individuals, are unique beings and generally innate good direction [4].
Humanistic psychology based on several key assumptions [5]:
- Man has free will, a philosophical point of view with existential elements.
- People are basically good and have an inborn need to want themselves and the world to become better.
- Everyone is most motivated by self-realization.
- The individual's subjective, conscious experiences are the most important.
- Scientific methodology is not necessary.
- Humans are unique, so a comparison with other animals is unnecessary and worthless (that is, psychological experiments in birds, mice, monkeys ... will indicate little to no resolution corresponding to human behavior).
The hierarchy of needs is no exception and is based on all of these assumptions, so from a scientific point of view, Maslow's hierarchy in particular and humanistic psychology, in general, have many problems. I will go into some easy-to-understand points in the next section, but perhaps we should first approach the foundation and analyze it from the scientific point of view.
First, the assumption that each holds the freedom to determine fate, a.k.a. free will, weakens them more or less as determinism prevails in large-scale debate, specifically in the field of precision science. Furthermore, on one hand, humanistic psychologists claim that human beings have free will, and on the other hand, argue that each person's behavior is determined by how others treat them (?!). So, while Maslow and humanistic psychology argue that people have free will, the reality shows that their lacking is not necessarily self-sufficient in themselves.
Second, the approach of this school also emphasizes individuality instead of universality, most of the interpretations are more verbal than concrete rules. For example, in the case of neuroscience, human behavior will be interpreted based on the biological basis of brain structure, thereby creating universal rules. While Maslow's pyramid needs are noted as "need to be used flexibly with each individual and specific case".
Third, Maslow's hierarchy of needs is not based on any empirical evidence, does not follow a well-established scientific methodology, and generally lacks the support of scientific evidence. Maslow himself knows and admits this. It may even be considered an unscientific theory due to the unreliable methodology and little empirical evidence.
Fourth, Maslow's arguments are quite general and not specific, in almost every respect, especially in the use of words. For example, "self-actualization" is a vague concept.
To build this theory, Maslow relied solely on the notes and biographies of 18 prominent people he claimed to have passed stage 5, including individuals such as Albert Einstein, Thomas Jefferson, Abraham Lincoln, Beethoven ... In itself, the method of biographical analysis is already not scientific, analysis based on Maslow's own judgment is even less scientific. Of the people he chose to study, all were highly educated white men but were expected by Maslow to find the principle that was right for everyone in the world. By 1970, he had begun to study more women, but still only a very small percentage of the sample. In addition, there isn't any biological evidence or other experimental investigation to support it.
Therefore, Maslow's theory or humanistic psychology in general, although expected to help understand human dynamics around the world, what they study and promote is narrow in the characteristics of a minority group. The main ideas of this theory are heavily influenced by Western society, especially individualism, that everyone needs to motivate themselves, help themselves, and ultimately move towards development yourself. This is not true of Asian culture, which is heavily social and communal and although personal interests still exist, it can be clearly seen that they place heavy emphasis on the need for acceptance and community interests rather than individuals.
In the end, the most valuable thing in the hierarchy is the ranking, which is the rise and fall, switching between stages and going upwards, actually has the most problems and doesn't seem to have much value. For example, many prominent individuals in history (such as Rembrandt and Van Gogh) had a difficult life and lack almost all basic needs, but still fulfill the need to realize the individual that lies at the highest level. Or in many societies, although people have not yet met the needs for safety and food at the bottom level, they still need the need for respect and love. Sometimes these needs are even higher than basic needs. Or another need that ranks at a higher level is the pursuit of faith, curiosity, or the pursuit of truth, which is always present in the poor, or soldiers in combat, who have an uncertain and unsafe fate.
Given all these limitations, especially in the lack of scientific evidence and reliable methodologies from the outset, Maslow's hierarchy of need is more idealistic than a credible scientific model. . However, the hierarchy in particular or the humanistic psychology in general are still applied in a very small scope of psychology, therapy, and psychological counseling. It is generally intended to serve as the resolution of personal problems rather than to address universal questions since one individual's feelings and expectations cannot represent other individuals.
C. The widely overused of public
Maslow's theory is particularly popular among the masses, more than any other psychological theory. Perhaps this comes from simplicity, ease of understanding, a level system like gaming, and consistent with popular opinion. I think anyone who looks at it quickly applies it to themselves.
However, as noted above, the hierarchy is only a research model of human motivation, useful only in terms of individual therapy, and has a severe lack of ability to answer grand questions. But the masses have used this pyramid of need to answer almost all complex problems: human resources management, love, war, vices, or even the existence of classes.
Remember that Maslow himself, the father of this theory, was pondering at the very end of his life to the cause of the problems which I had quoted at the beginning of this article. But most of all, later in his career, Maslow was also influenced by the hippie movement and argued that hallucinogenic drugs such as LSD or mushroom could help some people in certain situations experience the ultimate ascendence as he describes on the 8th stage. He was also influenced by the New Era wave and applied yoga terms to his theory. Ultimately, Maslow argued that the culmination of one's experience is related to psychic and other drug-influenced activities [6].
After many constant updates to his theory, Maslow has also been criticized for making too many exceptions. For example, he created a hierarchy from low to high but said that it is not necessarily a rigid order (?!). In considering and agreeing with the exceptions, Maslow's theory gradually becomes a form of common sense that can be recognized by anyone. In particular, nearly every need in the deficiency needs group exists in animals, especially mammals, such as physiological needs, or even the need for community interaction and respect. Nothing special about humans. This causes contradictions because according to the view of the humanistic psychology school, people must be different and unique, and at the same time said it is impossible to compare behavior between animals and humans.
The decentralization in the urgency of each need also creates a false sense of reality, as we can easily see that in fact, everyone demands many needs are to be met at the same time and the level of priority is not universal. Society and people are fundamentally a lot more complex than Maslow's simple model.
In general, Maslow's theories are not particularly difficult to understand and special, it is difficult to understand why they are so popular that you can see people claiming a lot of things based solely on the opening sentence that " According to Maslow's pyramid of needs, people… "as if that's the way it really is. From this abuse, the roots of many complex problems rest on the shoulders of individuals, rather than other objective factors. Because from the very beginning, Maslow's theory has been faithfully based on assumptions and revolves around individual motivations, ignoring the fact that man is a social creature and is attached to cooperation.
For example, some groups believe that the root of social vices is due to the fact that certain individuals need the lowest level of needs, including food, accommodation, and sex, as a motivator for them at all costs to achieve it. This has simplified a complex social phenomenon and completely assumed that crime is a phenomenon born of the selfish desires of some individuals.
In the 20th century, the hierarchy was used for application in governance and education. Fundamentally, this is a positive and humanistic goal, in accordance with the spirit and desire of humanistic psychology. It has been useful to a certain extent, helping educators understand that children will not be able to do well on an empty stomach, similar to that of a worker. The demand pyramid is also the answer to the hierarchical bureaucracy, helping managers know that not all employees have the same needs, nor can salaries solve productivity in higher positions. But it is the need pyramid that presents unrealistic routes to solve this problem by putting everyone in a rigid and compulsive process. In fact, students in a classroom and employees of a company do not necessarily have a need for self-realization or such "textbook" ideals. People have diverse desires and needs, influenced by those around them, rather than pure individual desires.
Maslow and humanistic psychology went too far into a humanistic and positive perspective that completely eliminated the existence of things that were classified as negative. Specifically, Maslow has called his own school of theory as positive psychology and studied only individuals he judged to be mentally healthy, not those with mental problems. This could be a deliberate resistance to the negative of old schools of psychology, especially psychoanalysis, which spurred the birth of humanistic psychology. However, avoiding negative things makes humanistic psychologists, while blowing new air into psychology, at the same time preventing them from seeing the comprehensive picture of the world. The series of serious phenomena such as warfare, genocide, and beyond cannot be answered through this school's point of view.
However, contrary to the positive wishes of humanistic psychologists like Maslow, the public sometimes abuses this hierarchical pyramid model to classify each other. Specifically, some groups have argued that those who are struggling to meet lower-level needs are beneath individuals who have found a way to realize their own desires. The norm, though, of self-realization with its manifestations (outlined above), is primarily built upon Maslow's observation of educated white male individuals in Western society of the 20th century.
In the present social context, it is impossible for most people to be able to realize it, we can't even find any solid reasons for one to do so. Maslow also overestimated an individual's will to realize oneself, because in order to become a successful pianist, in the end, do it entirely based on our individual wishes? If not, then what does it all mean, because although it is true that there is always a variety of choices in society, does diversity come with the freedom of choice, or is it just a complex arrangement?
"Why don't more people self-actualize if their basic needs are met? How can we humanistically understand the problem of evil?"
Perhaps because the realization of one's own wishes from the beginning was not the destination of everyone, and evil cannot be understood only through the humanistic point of view.
In the end, Maslow had not yet resolved many problems with his theory, before dying from a heart attack while jogging in the summer of 1970. However, he is still one of the great symbols of psychology, the pioneer who blew a positive breeze into human psychology research. Psychology, to this day, is still at dawn on its own and is still too young compared to other sciences. The fact that Maslow's theory, or any other psychological theory in existence, fails to deal with the big questions of humanity is not a too surprising truth.
But perhaps many people should know about this, before taking these incomplete theories mindlessly to solving complex problems, thinking that they are seeing the truth.
#MonsterBox
- Artist: Poetism.
- Trans: The RR.

Phật giáo vs cúng sao

Nhiều người nói Phật giáo bây giờ biến tướng, cúng sao giải hạng mê tín dị đoan... Nhưng mất đi cái đó rồi, nhóm những con người có ít họ...